Khôn ngoan và khờ dại – Lm. PX. Vũ Phan Long
1.- Ngữ cảnh
Về
phương diện văn chương và đề tài,
“Dụ ngôn mười trinh nữ” (Mt 25,1-13)[1]
được đặt trong ngữ cảnh là các
chương 24–25. Các chương này thuộc về bài
Diễn từ cuối cùng của TM I, ngay trước bài
tường thuật về Thương Khó và Phục Sinh
(ch. 26–28). Dụ ngôn thứ ba về tỉnh thức này
được liên kết với hai dụ ngôn
trước bằng các từ móc: “khôn ngoan” (phronimos: x.
24,45), “đến chậm” (chronizô: x. 24,48), “sẵn sàng”
([h]etoimos: x. 24,44), và “chủ/Chúa” (kyrios: x. 24,42.45-50).
Câu
truyện có đề tài là một cuộc rước dâu,
nhưng ta thấy các nhân vật chỉ có hai: mười
trinh nữ và chú rể, giống như trong bài nói về ông
chủ và tên đầy tớ (24,45-51), cũng như bài nói
về người tôi tớ trung thành và người tôi
tớ bất trung và ông chủ: chỉ có các tôi tớ và ông
chủ (25,14-30). Trong cả ba bài, có một khoảng
thời gian chia cách giữa các cuộc gặp gỡ,
khoảng thời gian này được nêu bật do sự
chậm trễ cố ý (24,48; 25,5) hoặc sự vắng
mặt lâu dài (25,19) của ông chủ hoặc của
người đóng vai trò đó.
Đọc
từ chương 23 đến đây, chúng ta có thể
thấy Mt xác định vị trí của các Kitô hữu
ở ngay giữa thời gian Israel đã từ
khước Đấng Mêsia và tiếp tục từ
khước các sứ giả của Người (23,34) và
thời gian chờ đợi Con Người ngự
đến (24,4b-14).
2.- Bố cục
Khi
đọc bản văn, chúng ta có thể nghĩ
đến một vở kịch với hành động
ngắn và nhanh, với những thay đổi
thường xuyên và với một điểm mở nút
xảy ra như hậu quả của một lỗi lúc
đầu có vẻ chỉ là một lỗi nhỏ.
Bản văn có thể chia làm năm “xen” (cảnh):
1)
Cảnh 1: Đầu đề – Giới thiệu (25,1-4):
các nhân vật (chú rể và các trinh nữ);
2)
Cảnh 2: Hồi xen giữa(25,5): sự chậm trễ và
giấc ngủ;
3)
Cảnh 3: Điểm nút (25,6-9): lời loan báo và sự xung
đột;
4)
Cảnh 4: Điểm mở nút (25,10): những cô
được vào và những cô không được vào;
5)
Cảnh 5: Hồi cuối cùng (25,11-12): Sự từ
chối;
*
Kết luận (25,13).
Trạng
từ “bấy giờ” cũng như c. 13 thuộc về
“khung bên ngoài”.
3.- Vài điểm chú
giải
- Bấy
giờ, Nước Trời sẽ giống như
chuyện mười trinh nữ (1): Câu này không có
nghĩa là Nước Trời giống như các trinh
nữ, nhưng có nghĩa là “bấy giờ” (tote), khi Nước
Trời tỏ hiện ra lần cuối, thì số phận
của loài người cũng giống như số
phận của các trinh nữ. “Bấy giờ” ở đây
chính là “Khi Con Người đến trong vinh quang của
Người” (25,31).
- trinh
nữ (1): Đây là những thiếu nữ chưa
lập gia đình, là bạn của cô dâu.
- dại
… khôn (2): Phronimos, “khôn”, có nghĩa là một
người có trái tim (phrên), nghĩa là thông minh. Ở Mt
7,24, người khôn là người biết “xây nhà trên
đá”; ở 24,45, người khôn là người biết
sẵn sàng theo lệnh của chủ. Còn môros, “dại”, là
rỗng, phàm tục, ngu đần, thiếu phán đoán.
- đèn
… dầu (3): Dầu và đèn không có ý nghĩa biểu
tượng nào, mà chỉ là những chi tiết rất
tự nhiên của truyện. Đèn ở đây có thể
là những cái bình nhỏ bằng đất nung hoặc là
những cây đuốc (một khúc gỗ rỗng, bên trong
có một cái bấc nhúng vào dầu). Đây chỉ là
những phụ tùng để soi sáng đoàn rước cho
thêm phần trang trọng.
- vì
chú rể đến chậm (5): Chú rể có thể
đến chậm do phải điều đình vào phút chót
về những điều khoản của khế
ước hôn nhân và những món quà phải biếu cho cha
mẹ cô dâu.
4.- Ý nghĩa của
bản văn
* Cảnh
1: Đầu đề – Giới thiệu (1-4): các
nhân vật (chú rể và các trinh nữ)
Ở
đầu đề (c. 1), tác giả giới thiệu các
nhân vật: chú rể, các thiếu nữ sẽ tháp tùng chàng
trong cuộc rước; các cô phải có mặt lúc chàng
đến, với đèn cháy sáng. Ở đây hẳn là
Đức Giêsu đã lấy cảm hứng từ tập
tục cưới hỏi Do Thái rồi sửa đổi
để diễn tả giáo huấn của Người.
Vào dịp lễ cưới, tập tục quy định
rằng chàng rể đến đón cô dâu tại nhà cha cô
rồi cả hai được một đoàn tùy tùng long trọng
rước về nhà chú rể, tại đây lễ
cưới sẽ được cử hành với một
bữa tiệc. Cùng với cô dâu, các cô phù dâu chờ
đợi chú rể đến. Các cô có nhiệm vụ
cầm đèn hoặc đuốc mà tháp tùng đoàn
rước ban đêm. Tuy nhiên, có những lúc do hoàn cảnh,
chú rể có thể đến chậm. Ở trong bài này, tác
giả không hề nói đến cô dâu, mà chỉ có một
đoàn mười cô phù dâu. Chính họ chiếm chỗ
của cô dâu và chờ đợi không phải là một chú
rể, nhưng chú rể (của họ). Trong truyện này,
vai cô dâu không cần thiết, bởi vì tác giả chỉ
muốn khai thác bài học từ vai các cô phù dâu mang đèn mà
thôi.
Vì
đã nhận lời mời, các trinh nữ phải nghĩ
đến mọi sự cần thiết để có
thể chu toàn nhiệm vụ. Cho đến lúc này, mọi
chuyện đều xảy ra như nhau cho cả
mười cô trinh nữ. Nhưng các cô khác nhau ở
điểm là có năm cô “khờ” (môrai), do không biết tiên
liệu, các cô này mang đèn mà không có dầu dự trữ,
và năm cô “khôn” (phronimoi), do biết tiên liệu, đã mang
thêm dầu dự trữ. Độc giả nhớ lại
là ở 7,24-27, cũng có nói đến những dung mạo
tích cực và tiêu cực để họ có thể
ướm cho mình.
* Cảnh
2: Hồi xen giữa (5): sự chậm trễ và
giấc ngủ
Vì
chàng rể đến chậm nên các cô đều ngủ
cả. Trên sân khấu, chỉ có các cô mà thôi. Hầu như
không có một hành động nào, hành động bị
“treo” lại, không tiến tới. Sự chậm trễ
của chú rễ đã khóa diễn tiến của vở
kịch lại. Giấc ngủ càng nêu bật tình trạng
thiếu vắng hành động. Chúng ta không biết các cô
ngủ ở đâu, nhưng dựa theo tập tục
cưới hỏi Do Thái, ta co thể nghĩ là tại nhà
cô dâu. Như thế, những cô không có dầu đã không
biết dùng thì giờ còn có để giải quyết thiếu
sót. Sự chậm trễ của chàng rể lẽ ra
phải là cơ may để họ chuẩn bị tốt
hơn, nhưng lại không phải như thế.
* Cảnh
3: Điểm nút (6-9): lời loan báo và sự xung
đột
Đến
đây, phần giới thiệu đã xong, chúng ta đi vào
cảnh trung tâm của vở kịch. Bất chợt
mọi sự chuyển động. Một lời loan báo,
một tiếng “hô” vang lên trong đêm đã thức
tỉnh dòng chuyển của vở kịch. Tiếng hô
bất ngờ vang lên trong đêm khuya khiến câu truyện
đầy kịch tính. Thông thường, chàng rể
đến giữa tiếng đàn ca, nên người ta có
thể nghe được từ đàng xa. Đàng này,
tiếng hô đột ngột kéo bật các thiếu nữ
ra khỏi giấc ngủ. Hành động đến
dồn dập, mười trinh nữ giật mình thức
dậy. Các cô lóng cóng chuẩn bị đèn. Khoảnh
khắc của sự thật đã đến. Chú rể
sắp xuất hiện. Một chút nữa thôi, khi đèn
đã được thắp, các cô sẽ đi vào tiệc
cưới với chàng. Nhưng sự thiếu sót lúc
đầu bây giờ trở nên hệ trọng: số
dầu dự trữ không đủ cho cả mười
chiếc đèn. Tình thế lưỡng nan thì thật
đau đớn: chỉ người nào có đèn cháy sáng
mới được theo đoàn rước và dự tiệc
cưới; các cô khôn không thể nào hy sinh dầu nếu
không muốn phải ở ngoài. Do đó câu trả lời
duy nhất các cô có thể nói với các bạn là “không”.
Bởi vì hoàn cảnh đang và cứ có tính xung đột,
nên mẩu đối thoại cũng có tính xung đột.
Các cô khôn không đồng ý, không phải là vì ích kỷ,
thiếu thông cảm; câu trả lời của các cô
diễn tả một tình trạng bất khả kháng
thật sự; chính sự thiếu tiên liệu của các
cô khờ đưa tới câu trả lời “không” của
các bạn. Khi trả lời “không”, các cô khôn chỉ nêu
bật một hoàn cảnh là hậu quả của thái
độ thiếu tiên liệu. Bây giờ mọi sự
đã quá muộn. Lời xin của các cô khờ đúng là
cách giải quyết nhanh nhất cho bế tắc các cô
đã rơi vào; nhưng câu trả lời của các cô khôn
cũng là giải pháp duy nhất có cô có sẵn trong tầm
tay.
* Cảnh
4: Điểm mở nút (10): những cô
được vào và những cô không được vào
Các
biến cố ào ào kéo đến. Các cô khờ theo gợi ý
của các bạn, đi mua dầu. Trong khi đó,
động cơ của bài tường thuật
được thực hiện: chàng rể đến và
đi vào lễ mừng đám cưới. Chỉ những
cô đã sẵn sàng với đèn cháy sáng, mới
được đi theo chú rể. Cửa được
đóng lại. Ba hành động đi theo nhau: chú rể
đến, các cô khôn đi vào và cửa đóng lại. Ta
không thấy gợi ra một chọn lựa nào cả.
Cửa đưa vào tiệc cưới không
được mở ra nữa. Các cô khờ không còn có
thể đi vào được.
* Cảnh
5: Hồi cuối cùng (11-12): sự từ chối
Sau
đó, các cô khờ đến; các cô xin được vào
trong phòng tiệc. Đây cũng là một đối
thoại mang tính xung đột. Phải chăng các cô
nại tới sự quen biết đã từng có với
chú rể? Ta không thấy các cô viện tới lý do nào
cả. Các cô có nói tới lý do đi mua dầu không? Ta
cũng không biết. Các cô có nhận ra sai lầm của
mình chăng? Ta cũng chẳng hay. Giọng các cô gọi
cửa có nét bi thương; dường như các cô
nại tới lòng từ bi thương xót của chú
rể–chủ nhà. Nhưng chú rể từ khước;
chàng nói rằng chàng không quen biết các cô. Hành động
của vở kịch đưa tới một tai họa.
Lời các
trinh nữ gọi: “Thưa Ngài! Thưa Ngài! Mở cửa cho
chúng tôi với!” khiến chúng ta nhớ đến một
đoạn trong Bài Giảng trên núi: “Không phải bất
cứ ai thưa với Thầy: ‘Lạy Chúa! Lạy Chúa!’
là được vào Nước Trời cả đâu!
Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là
Đấng ngự trên trời, mới được vào
mà thôi. Trong ngày ấy, nhiều người sẽ thưa
với Thầy rằng: ‘Lạy Chúa, lạy Chúa, nào chúng tôi
đã chẳng từng nhân danh Chúa mà nói tiên tri, nhân danh Chúa
mà trừ quỷ, nhân danh Chúa mà làm nhiều phép lạ đó
sao?’ Và bấy giờ Thầy sẽ tuyên bố với
họ: Ta không hề biết các ngươi; xéo đi cho khuất
mắt Ta, hỡi bọn làm điều gian ác!” (x. Mt
7,21-23). Trong dụ ngôn Tiệc cưới, chuyện
được mời vẫn không tránh cho người kia
khỏi bị trục xuất vì không có áo cưới
(22,12-13); ở đây cũng thế, chuyện
được chọn vào đoàn rước vẫn không đảm
bảo cho mình được vào phòng tiệc khi đến
trễ. Bây giờ chú rể lại trở thành
người gác cửa cứng rắn, khẳng
định là không biết họ là ai. Do chểnh mảng,
các cô đã mất tư cách, các cô không còn thuộc phái
đoàn của chàng rể nữa. Đi đến đây,
dụ ngôn đã biến thành ẩn dụ. Chàng rể
(nymphios) trở thành Đức Kitô; lời thưa gửi
với chú rể cũng như lời chú rể trả
lời cho thấy như thế (kyrios). Đây chính là
Đức Kitô đang tuyên bố phán quyết cánh chung.
Lời từ chối có tính dứt khoát, chứ không
viện lý do nào cả. Chúng ta có thể giả thiết
rằng lỗi của các cô khờ là đã không chu toàn
nhiệm vụ tháp tùng đoàn rước, tức là
vắng mặt vào lúc phải có mặt. Như thế,
được vào/không được vào tiệc
cưới là phần thưởng/hình phạt mà chú
rể–chủ nhân dành cho người đã sẵn sàng/không
sẵn sàng mà hoàn tất công tác được yêu cầu.
* Kết
luận (13)
Câu
kết “Vậy anh em hãy canh thức, vì anh em không biết
ngày nào, giờ nào” (c. 13) tái khẳng định tầm
mức của dụ ngôn. Có thể nói câu này đã xuất
hiện ở 24,42. Trong dụ ngôn Mười trinh nữ,
câu này có vẻ không hợp, bởi vì cả mười cô
đều ngủ, vả lại câu truyện không trực
tiếp dạy về canh thức, nhưng dạy về
việc chuẩn bị dầu đèn sẵn sàng khi Chúa
đến. Thật ra, sự canh thức ở đây
chủ yếu hệ tại quyết định của
các môn đệ là bền bỉ thi hành cụ thể
những gì họ đã được kêu gọi thi hành.
+ Kết luận
Chắc
chắn theo bản văn của Mt ở đây, chú rể
tượng trưng cho Đức Kitô (cũng như ông chủ
trong dụ ngôn Các yến bạc và vị vua trong dụ ngôn
Phán xét cuối cùng). Mười trinh nữ là cộng
đoàn Kitô hữu đang chờ đợi ngày Quang lâm
của chủ mình. Cuộc Quang lâm sẽ chậm xảy
ra, dù các Kitô hữu đã tưởng là gần kề. Dù
được chờ đợi, Đức Kitô sẽ
đến vào lúc không ai ngờ (Mt 24,44.50; x. Lc 12,40.46; Mc
13,33-37; 1 Tx 5,2); chẳng một phỏng đoán nào về
ngày giờ Quang lâm có thể được coi là có cơ
sở cả.
Thuộc
về Nước Thiên Chúa không phải là chuyện tự
nhiên. Điều này hàm ý có sự phát triển không
đương nhiên là đồng đều với
mỗi người. Để được như
thế, mỗi người cần phải sống phù
hợp, cương quyết, có chọn lựa. Với
dụ ngôn Mười trinh nữ, Đức Giêsu cho
thấy hành động khôn ngoan, biết tiên liệu và
hợp lý có trước có sau là chuyện cần thiết
đối với mỗi người. Người ta có
thể đạt tới Nước Thiên Chúa nhờ
sự khôn ngoan hoặc mất Nước Thiên Chúa do sự
khờ dại.
Nếu
trên trái đất này, cuộc sống là một cuộc
chờ đợi, thì trong thế giới bên kia, cuộc
sống là một bữa tiệc cưới, thậm chí là
một lễ cưới. Để cho các hình ảnh
được phi vật chất hóa, Đức Giêsu nói
đến các trinh nữ thay vì các cô dâu tầm
thường. Đời sống trên trời là một
cuộc sống hiệp nhất với Thiên Chúa, nhưng
trinh khiết (x. 19,12).
5.- Gợi ý suy
niệm
1. Một
nửa số thiếu nữ là khờ. Đây là một
lời cảnh giác của tác giả: không phải cứ
được gọi gia nhập vào cộng đoàn Kitô
hữu là người ta đã có được mọi
phẩm chất cần thiết. Các Kitô hữu phải
biết đánh giá chính xác thực tại trong đó mình
đang sống và có một ý chí cương quyết hành
động cho phù hợp. Nếu không chịu áp dụng các
giáo huấn của Đức Giêsu vào đời sống
mình, mà tiên liệu mọi sự, có thể sẽ quá
muộn. Đến khi ấy, có viện dẫn mọi lý
do, mọi duyên cớ ra mà thanh minh, đều vô ích.
2. Kết
thúc câu truyện hoàn toàn không phù hợp với một
đám cưới. Trong một dịp cưới hỏi,
hẳn là người ta chẳng để ý là đèn
của một vài cô phù dâu bị tắt, với lại
nếu thấy thì hẳn cũng chẳng than phiền gì.
Hẳn là người ta cũng không từ chối mở
cửa cho một vài người đến chậm. Còn chú
rể, vì là nhân vật chính, phải lo mừng lễ,
hẳn không còn tâm trí đâu mà nói những lời như bài
Tin Mừng ghi lại. Bài Tin Mừng chúng ta đọc mang
màu sắc cuộc Phán xét chung cuộc.
3. Phán
quyết sau này trên cuộc đời ta không phải là
chuyện may mắn hay rủi ro vô phương tiên liệu. Không phải là Thiên
Chúa có một bản án chuẩn bị trước cho ta,
nhưng chính ta thực hiện bản án đó bằng
lối sống của mình. Do sự chểnh mảng, các
trinh nữ khờ dại đã tự loại mình khỏi
niềm vui. Phán quyết chỉ phê chuẩn lối sống
này mà thôi.
4. Chúng ta
không thể so đo tính toán hơn thiệt trong thời gian
chờ đợi Chúa Kitô đến. Bởi vì không
biết ngày giờ, chúng ta chỉ còn một việc là luôn
luôn sẵn sàng, là vâng phục cho tới cùng và cứ càng lúc
càng tha thiết hơn. Khi đó dầu sẽ không bao giờ
thiếu trong đèn của chúng ta.
5. Mục
tiêu của bài dụ ngôn này là cung cấp một giáo
huấn cho Hội Thánh. Độc giả được
biết rằng không phải tất cả những
người được gọi đến với
lễ cưới của chú rể sẽ thật sự
được tham dự vào. Đến ngày phán xét cuối
cùng, sẽ có một cuộc chia cắt xuyên qua khối các
tín hữu để tách những người
được chọn với những người
được gọi (x. 22,14). Quan trọng không phải là
được gọi nhưng là được thử
thách, không phải là đèn nhưng là dầu, không phải
là tư cách thành viên Hội Thánh nhưng là những việc
làm.
|