Kurios Christos!
Nghi thức hôn phối
được bắt đầu khi nghe tiếng đàn
vọng lên. Họ hàng bên
đàng gái hồi hộp đợi chờ tiếng đàn
vang lên. Nhưng đợi mãi vẫn không thấy, nên
người giúp lễ đã ra hiệu cho người
đánh đàn bằng cách búng tay. Những vẫn không thấy động tĩnh
gì. Người giúp lễ liền vỗ tay để ra hiệu, cũng không ăn
thua. Vì mọi người đang chờ, cho nên
người giúp lễ hoảng hốt vội vàng kêu tên
của người đánh đàn to tiếng: "Quì... Quì." mọi người trong nhà thờ
liền quì xuống.
"Kurios
Christos!" (Chúa Kitô là Chúa) là bản tuyên
xưng đức tin của nhóm người La Mã sống vào
thế kỷ đầu tiên công nguyên. Họ
là những người được gọi là Kitô giáo.
Vào thời kỳ này vua là chúa mọi
người vì thế mọi người phải quì bái
trước bàn thờ của vua Caesar. Mỗi
năm họ buộc phải kêu tên nhà vua, "Kurios
Caesar," nghĩa là "Caesar là chúa tể." Khi nhóm người Kitô giáo hồi đó
đọc bản tuyên xưng của họ thì cũng có
nghĩa là "Quốc gia-Caesar-không phải là chúa!"
Họ đã
minh chứng những gì đã được tuyên xưng
trên núi Sinai: "Chúng tôi sẽ không có chúa nào khác ngoài Thiên
Chúa". Họ cũng xác định sự trung
thành đối với Chúa cao hơn đối với
quốc gia. Chính vì thế, nhiều người đã
bị quẳng cho sư tử ăn
thịt. Tuy nhiên, lòng cương quyết
của họ vẫn không ngừng cho dù phải chết
cách nào đi nữa họ vẫn thưa, "Không!" vì
họ nghĩ, "quốc gia này phải luôn luôn dưới
quyền của Chúa, và quốc gia này sẽ bị Chúa phán
xét."
Một thương gia vào
khoảng 45 tuổi được vợ đón tại phi
trường sau khi thi hành công tác. Khi
cô chiêu đãi viên xinh đẹp đi ngang qua hai
người, người chồng liền nói với cô
ấy: "Tôi hy vọng sẽ được bay với
cô trong chuyến bay khác. Cô Lan." Người vợ nghe
thấy vậy, nóng mặt hỏi chồng: "Làm sao anh
biết được tên cô ta?" Ông chồng đáp:
"Tên cô ta được ghi trong danh sách của chuyến
bay, anh còn biết tên cô ta ở dưới tên của
người phi công nữa." Người vợ hỏi
tiếp: "Vậy tên của người lái máy bay tên gì. Anh có thể cho em biết được
không?" Ông ta thua trận và sự
giả dối của anh ta đã bị lộ.
Chúa
Giêsu chỉ trích mạnh mẽ về sự giả hình. Ngài lên án
những hạng người chỉ bày tỏ vẻ
bề ngoài khi họ ăn chay và cầu nguyện:
"Giả hình, vì họ làm như vậy để
được khen ngợi và được mọi
người biết đến." Ngài lên án
những người làm đầu trong đền thờ
vì họ chỉ ca tụng Chúa trên môi miệng, nhưng lòng
họ thì trống rỗng.
Trong
bài Phúc Âm hôm nay, nhóm Pharisiêu cố gắng dụ Chúa Giêsu vào
cạm bẫy của họ bằng cách làm cho Ngài lỗi
luật quốc gia.
Họ hỏi Chúa có nên nộp thuế cho Caesar hay không.
Họ nghĩ Chúa Giêsu sẽ chống lại việc
nộp thuế cho chính phủ La Mã, như vậy có lợi
cho nhóm người tư tế, và Ngài sẽ bị bắt
vì chống lại nhà nước. Và nếu
Chúa Giêsu làm ngược lại thì làm phật lòng nhóm tư
tế. Họ gài Chúa Giêsu vào thế tiến thoái
lưỡng nan. Nhưng
Chúa Giêsu trả lời họ cách khôn ngoan, tránh né không đi
vào phe nào. Ngài cắt nghĩa cho họ
biết những gì của Caesar thì trả cho Caesar, còn
những gì của Thiên Chúa thì trả cho Thiên Chúa. Ngài nhìn thấu sự giả hình của bọn
họ, Ngài không muốn bước vào cạm bẫy
của bọn chúng.
Nhưng
những gì của Caesar? Những gì của Thiên Chúa? Đó không phải là những câu hỏi khó trả
lời chỉ riêng đối với nhóm Biệt Phái,
nhưng cũng là những câu hỏi khó giải quyết
đối với các Tông đồ. Và
ngay trong thời đại này cũng là một vấn
nạn trong tôn giáo. Chính phủ thay đổi, hình
thức cũng thay đổi, quốc gia, kinh tế,
văn hóa và xã hội luôn được thay đổi
nhưng vấn nạn thì không bao giờ thay đổi.
Những
gì là của Chúa? Những gì là của Caesar? Chúa
Giêsu để cho chúng ta tự giải quyết lấy
chính mình. Hơn thế nữa, Ngài đã
dùng chính mạng sống mình để giải quyết
vấn nạn đó. Ngài ban cho chúng ta
lề luật thông thường nhất, nhưng chúng ta
đã làm cho nó trở nên phức tạp khi thi hành. Luật đó được đặt ra khi
người ta hỏi Ngài về giới luật nào
trọng nhất. Ngài trả lời: "Ngươi
phải yêu Chúa là Thiên Chúa ngươi hết lòng hết
sức và hết linh hồn ngươi." đó là
điều răn thứ nhất và trọng nhất. Còn
điều răn thứ hai: "Ngươi phải
thương yêu kẻ khác như chính mình ngươi"
(Mt 22:38).
Chúa
Giêsu đã đề cao giới luật này trong suốt
cuộc sống công khai của Ngài trong mọi nơi,
mọi lúc và trong mọi hoàn cảnh. Ngài tuyên bố hai
giới luật này không bao giờ tách rời
được. Chúng ta không thể chu
toàn giới luật thứ nhất nếu không hoàn tất
giới luật thứ hai. Nói yêu Chúa nhưng
không thương yêu tha nhân thì hoàn toàn trái nghịch.
Thánh Gioan nói," Nếu ai nói tôi yêu mến Thiên Chúa mà
lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói
dối, vì ai không yêu thương người anh em mà họ
trông thấy thì họ không thể yêu mến Thiên Chúa,
Đấng mà họ không trông thấy. Đây là giới
luật mà chúng ta đã nhận được từ
Người: ai yêu mến Thiên Chúa, thì cũng yêu
thương anh em mình (1 Jn 4:20,21).
Nếu
như vậy khi nào chúng có thể vừa thi hành luật
Chúa và đồng thời thi hành luật quốc gia? Thiên Chúa ban cho chúng ta phẩm tính
con người khi tác tạo nên chúng ta. Mỗi
cá nhân được hưởng quyền đó. Mọi người đòi buộc phải
trọng kính nhân phẩm này. Khi luật quốc gia vi phạm đến nhân phẩm con
người như: phá thai, kỳ thị, nô lệ vân vân...
chúng ta không tuân theo cũng không lỗi luật quốc gia,
vì chúng ta phải vâng lời Thiên Chúa hơn luật con
người.
Chúng
ta hãy trao lại Chúa những gì thuộc về Ngài. Chúng ta phải vâng
phục Thiên Chúa. Chúng ta phải bỏ
đi những gì làm chúng ta xa lìa Chúa.
|