HIỆP SỐNG TIN MỪNG
CN 3 MÙA CHAY A
Xh 17,3-7 ; Rm 5,1-2.5-8 ; Ga 4,5-42
TRỞ NÊN MẠCH NƯỚC BAN ƠN CỨU ĐỘ
ĐỜI ĐỜI
I. HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG : Ga 4,5-42
(5) Vậy Người đến một thành xứ
Sa-ma-ri, tên là Xy-kha, gần thửa đất ông
Gia-cóp đã cho con là ông Giu-se. (6) Ở
đấy, có giếng của ông Gia-cóp. Người
đi đường mỏi mệt, nên ngồi ngay xuống
bờ giếng. Lúc đó vào khoảng mười
hai giờ trưa. (7) Có một người phụ
nữ Sa-ma-ri đến lấy nước. Đức
Giê-su nói với người ấy : “Chị cho
tôi xin chút nước uống !”. (8) Quả thế,
các môn đệ của Người đã vào
thành mua thức ăn. (9) Người phụ nữ
Sa-ma-ri liền nói : “Ông là người Do thái,
mà lại xin tôi, một phụ nữ Sa-ma-ri, cho ông
nước uống sao ?” Quả thế, người
Do thái không được giao thiệp với
người Sa-ma-ri. (10) Đức Giê-su trả lời
: “Nếu chị nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban, và
ai là người nói với chị : Cho tôi
chút nước uống, thì hẳn chị
đã xin, và người ấy ban cho chị Nước
Hằng Sống”. (11) Chị ấy nói : “Thưa
ông, ông không có gầu, mà giếng lại sâu. Vậy
ông lấy đâu ra Nước Hằng Sống ?
(12) Chẳng lẽ ông lớn hơn tổ phụ
Gia-cóp chúng tôi, là người đã cho
chúng tôi giếng này ? Chính Người
đã uống nước giếng này, cả
con cháu và đàn gia súc của Người
cũng vậy”. (13) Đức Giê-su trả lời
: “Ai uống nước này, sẽ lại khát.
(14) Còn ai uống nước tôi cho, sẽ không bao
giờ khát nữa. Và nước tôi cho
sẽ trở thành nơi người ấy một
mạch nước vọt lên, đem lại sự
sống đời đời”. (15) Người
phụ nữ nói với Đức Giê-su :
“Thưa ông, xin ông cho tôi thứ nước ấy,
để tôi hết khát và khỏi phải đến
đây lấy nước”. (16) Người bảo
chị ấy : “Chị hãy gọi chồng chị, rồi
trở lại đây”. (17) Người phụ nữ
đáp : “Tôi không có chồng”. Đức Giê-su
bảo : “Chị nói : Tôi không có chồng là phải,
(18) vì chị đã năm đời chồng
rồi, và hiện người đang sống với
chị không phải là chồng chị. Chị đã
nói đúng”. (19) Người phụ nữ
nói với Người : “Thưa ông, tôi thấy
ông thật là một Ngôn sứ… (20) Cha ông chúng
tôi đã phờ phượng Thiên Chúa trên
núi này. Còn các ông lại bảo: Giê-ru-sa-lem
mới chính là nơi phải thờ phượng
Thiên Chúa”. (21) Đức Giê-su phán : “Này chị,
hãy tin tôi : đã đến giờ các người
sẽ thờ phượng Chúa Cha, không phải
trên núi này hay tại Giê-ru-sa-lem. (22) Các người
thờ Đấng các người không biết;
còn chúng tôi thờ Đấng chúng tôi biết,
vì ơn cứu độ phát xuất từ
dân Do thái. (23) Nhưng giờ đã đến
và chính là lúc này đây, giờ những
người thờ phượng đích thực
sẽ thờ phượng Chúa Cha trong Thần
Khí và Sự Thật, vì Chúa Cha tìm
kiếm những ai thờ phượng Người
như thế. (24) Thiên Chúa là Thần Khí, và
những kẻ thờ phượng Người
phải thờ phượng trong Thần Khí và
Sự Thật”. (25) Người phụ nữ
thưa : “Tôi biết Đấng Mê-si-a, gọi là Đức
Ki-tô sẽ đến. Khi Người đến, người
sẽ loan báo cho chúng tôi mọi sự”. (26)
Đức Giê-su nói : “Đấng ấy chính là
tôi, người đang nói với chị
đây”. (27) Vừa lúc đó, các môn đệ
trở về. Các ông ngạc nhiên vì thấy Người
nói chuyện với một phụ nữ. Tuy
thế, không ai dám hỏi : “Thầy cần gì vậy
?” Hoặc “Thầy nói gì với chị ấy
?”.(28) Người phụ nữ để vò nước
lại, vào thành và nói với người
ta : (29) “Đến mà xem : có một người
đã nói với tôi về tất cả những
gì tôi đã làm. Ông ấy không phải là
Đấng Ki-tô sao ?” (30) Họ ra khỏi thành và
đến gặp Người. (31) Trong khi đó,
các môn đệ thưa với Người
rằng : “Ráp-bi, xin mời Thầy dùng bữa”.
(32) Người nói với các ông : “Thầy
phải dùng một thứ lương thực
mà anh em không biết”. (33) Các môn đệ hỏi
nhau : “Đã có ai mang thức ăn cho Thầy
rồi chăng ?”. (34) Đức Giê-su nói với
các ông : “Lương thực của Thầy là
thi hành ý muốn của Đấng đã sai
Thầy, và hoàn tất công trình của Người”.
(35) Nào anh em chẳng nói : Còn bốn tháng
nữa mới đến mùa gặt ? Nhưng
này, Thầy bảo anh em : Ngước mắt
lên mà xem : đồng lúa đã chín vàng
đang chờ ngày gặt hái !”.(36) Ai gặt
thì lãnh tiền công và thu hoa lợi để
được sống muôn đời. Và như
thế, cả người gieo lẫn kẻ gặt
đều hớn hở vui mừng. (37) Thật
vậy, câu tục ngữ “Kẻ này gieo, người
kia gặt” quả là đúng ! (38) Thầy sai
anh em đi gặt những gì chính anh em
đã không vất vả làm ra. Người khác
đã làm lụng vất vả. Còn anh em, anh em
được vào hưởng kết quả
công lao của họ”. (39) Có nhiều người
Sa-ma-ri trong thành đó đã tin vào Đức
Giê-su, vì lời người phụ nữ
làm chứng : "Ông ấy nói với tôi mọi
việc tôi đã làm". (40) Vậy, khi đến
gặp Người, dân Sa-ma-ri xin người ở
lại với họ, và Người đã
ở lại đó hai ngày. (41) Số người
tin vì lời Đức Giê-su nói còn
đông hơn nữa. (42) Họ bảo người
phụ nữ : “Không còn phải vì lời
chị kể mà chúng tôi tin. Quả thật, chính
chúng tôi đã nghe và biết rằng : Người
thật là Đấng Cứu Độ trần
gian”.
2. Ý CHÍNH :
Bài Tin Mừng hôm nay thuật lại cuộc
đối thoại của Đức Giê-su với
một phụ nữ Sa-ma-ri. Người đã
từng bước đưa chị ta đón
nhận mặc khải quan trọng : Người
chính là Đấng Thiên Sai, ban Nước
Hằng Sống cho những ai tin vào Người
và họ cũng sẽ biến thành mạch nước giúp
người khác đón nhận sự sống đời
đời.
3. CHÚ THÍCH :
- C 5-9 : + Đến một thành
xứ Sa-ma-ri : Từ Giê-ru-sa-lem về Ga-li-lê
ngang qua xứ Sa-ma-ri, Đức Giê-su đã tới
giếng Gia-cóp gần thành Sy-kha (hay Si-khem) tại
đất Ca-na-an (x. St 33,18; 48,22). Đây là đất
mà tổ phụ Gia-cóp đã cho Giu-se và con
cháu làm gia nghiệp (x. Gs 24,32). + Khoảng giờ
thứ sáu : Tức khoảng mười
hai giờ trưa. Người Do thái tính thời
gian như sau : ban ngày có 12 giờ và ban
đêm có 4 canh giờ. Ngày bắt đầu
từ giờ Thứ Nhất (6g sáng) lúc
mặt trời mọc, và kết thúc vào
giờ Thứ Mười Hai (18g00) lúc
mặt trời lặn. + “Chị cho tôi xin
chút nước uống !”: Đức
Giê-su chủ động xin nước uống để
có cơ hội bắt chuyện, giúp người
phụ nữ dần dần nhận ra Người
là Đấng ban Nước Hằng Sống,
đem lại ơn cứu độ cho loài người. +
“Ông là người Do thái, mà lại xin tôi,
một phụ nữ Sa-ma-ri, cho ông nước uống
sao ?”: Từ sau khi đi lưu đày trở
về, dân Do thái xây dựng lại Đền Thờ
mà không cho người Sa-ma-ri cộng tác, nên họ
đã xúi vua Ba-tư cản trở công cuộc
tái thiết này (x. Er 4,1-16). Từ đó hai
dòng giống Do thái và Sa-ma-ri tuy cùng một
tổ tiên, sống sát bên nhau, nhưng lại có ác
cảm và không giao tiếp với nhau. Ở
đây, người phụ nữ này nhận ra
Đức Giê-su là người Do thái qua giọng
nói và cách ăn mặc nên đã tỏ
ra ngạc nhiên và từ chối như vậy.
- C 10-15 : + “Nếu chị nhận ra
ân huệ Thiên Chúa ban, và ai là người
nói với chị : Cho tôi chút nước
uống, thì hẳn chị đã xin, và người
ấy ban cho chị Nước Hằng Sống”…:
Nhân dịp này, Đức Giê-su cho người
phụ nữ kia biết Người là Đấng
ban Nước Hằng Sống. + “Thưa ông,
ông không có gầu, mà giếng lại sâu. Vậy ông
lấy đâu ra Nước Hằng Sống
?...: Người phụ nữ này chỉ
hiểu lời nói của Đức Giê-su theo
nghĩa thông thường là nước giếng
tự nhiên, đang khi Đức Giê-su lại có
ý nói đến Nước Hằng Sống
là Ơn Cứu Độ. + “Ai uống nước
này, sẽ lại khát. Còn ai uống nước
tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa. Và
nước tôi cho sẽ trở thành nơi người
ấy một mạch nước vọt lên, đem lại
sự sống đời đời” : Đức
Giê-su so sánh nước giếng tự nhiên chỉ
làm đã khát nhất thời, với Nước
Hằng Sống mang lại sự sống đời
đời mà Người sẽ ban, để
khơi dậy sự khao khát nơi người
này. + “Thưa ông, xin ông cho tôi thứ nước
ấy, để tôi hết khát và khỏi phải
đến đây lấy nước” : Đức
Giê-su dẫn dắt người phụ nữ từ
thái độ thù nghịch đến chỗ thân thiện.
Từ vai một người xin nước
đến chỗ là Đấng ban Nước
Hằng Sống và chị ta đã xin Người
ban thứ Nước ấy.
- C 16-22 : + “Chị hãy gọi chồng
chị, rồi trở lại đây” : Đức
Giê-su tỏ ra là người lịch sự khi
muốn nói chuyện với người phụ
nữ trước mặt chồng chị ta,
đồng thời Người cũng muốn chị
ta ý thức về thân phận tội nhân của mình. +
“Chị nói : Tôi không có
chồng là phải, vì chị đã năm
đời chồng rồi, và hiện người
đang sống với chị không phải là chồng
chị. Chị đã nói đúng” : Đức
Giê-su cho người phụ nữ ý thức
tình trạng hôn nhân bất hợp pháp của
mình. Một số nhà chú giải còn nhìn
thấy 5 đời chồng là hình ảnh tượng
trưng dân Sa-ma-ri vừa kính sợ Đức
Chúa, lại vừa phụng thờ 5 vị thần
khác (x. 2V 17,29-34.41). + Thưa ông, tôi thấy ông thật
là một Ngôn Sứ : Người phụ
nữ sửng sốt khi thấy Đức
Giê-su thấu suốt đời tư của mình,
và tôn xưng Người là một Ngôn sứ.
Đồng thời, chị ta xin Đức Giê-su
chỉ dẫn phải tôn thờ Thiên Chúa trên núi
Ga-ra-dim như người Sa-ma-ri, hay thờ Chúa
tại Đền Thánh Giê-ru-sa-lem như người
Do Thái ? + Đã đến giờ : Đức
Giê-su dạy chị phụ nữ với tư cách
vị Ngôn sứ : Đã đến giờ Người
xuất hiện để thực hiện chương
trình cứu độ. Người cho biết
: việc thờ phượng tại núi này
hay tại Giê-ru-sa-lem chỉ là hình bóng và
đã qua rồi. Bây giờ là thời Thiên
Sai, phải chấm dứt việc thờ phượng
cũ để bắt đầu cách thờ
phượng mới nơi bản thân Người. +
Thờ Đấng mà các người không
biết : Người Sa-ma-ri chỉ công nhận
bộ sách Ngũ Kinh và không biết đến các
sách khác, nhất là các Ngôn Sứ mặc
khải về Thiên Chúa. + Còn chúng tôi thờ
Đấng chúng tôi biết : Người Do
thái tuân giữ toàn bộ các sách Thánh
Kinh. Sau này, Tông đồ Phao-lô cũng nhấn mạnh
về đặc ân đó của người
Do thái (x. Rm 9,4).
- C 23-29 : + Thờ phượng
Chúa Cha trong Thần Khí : là tôn thờ
Thiên Chúa dưới sự soi sáng và sức
mạnh của Chúa Thánh Thần. + Trong Sự
Thật : Thờ Thiên Chúa trong Đức
Giê-su, Đấng là “đường, sự thật
và sự sống” (Ga 14,6). Tóm lại, từ
nay Đức Giê-su trở nên Đền Thờ
mới sẽ thay Đền Thờ cũ trên núi
Ga-ra-dim hay tại Giê-ru-sa-lem. + Thiên Chúa là Thần
khí, và những kẻ thờ phượng
Người phải thờ phượng trong
Thần Khí và Sự Thật” : Đức
Giê-su đã nêu ra một điều được
cả người Do thái và người
Sa-ma-ri chấp nhận là lời quả quyết:
“Thiên Chúa là Thần Khí, và người
ta phải thờ Người ở khắp
mọi nơi, thờ chính Thiên Chúa chứ
không phải thờ hình bóng của Người.
Thiên Chúa là Đấng vô hình, nên Người
đòi người ta phải thờ phượng
Người trong tâm hồn. Một số người
dựa vào câu này để từ chối
thờ Chúa bằng những hình thức
lễ nghi bên ngoài. Thực ra Đức Giê-su vẫn
thường xuyên lên Đền thờ (x. Ga 2,13;
7,14; 11,55) và đến hội đường Do
thái (x. Mt 1,21; Mt 13,54) để tham dự các
nghi lễ thờ phượng Thiên Chúa. Người
chỉ chống lại những nghi lễ vụ hình
thức mà thôi (x. Mt 15,7-9; 21,12-13). + Đấng
Mê-si-a, gọi là Đức Ki-tô sẽ đến : Dù
chưa hiểu được ý nghĩa về lời
giải thích trên đây, người đàn bà
này cũng quan tâm đến tôn giáo. Bà hy vọng
Đấng Ki-tô sẽ đến loan báo mọi sự. +
Đấng ấy chính là tôi : Bình thường,
Đức Giê-su không muốn tỏ ra là Đấng
Thiên Sai vì sợ dân Do thái hiểu vai trò Thiên Sai
theo nghĩa chính trị. Còn ở đây nói
với người phụ nữ Sa-ma-ri, Người
không sợ bị hiểu lầm nên đã tỏ mình
chính là Đấng Thiên Sai. + Các ông ngạc
nhiên vì thấy Người nói chuyện với
một phụ nữ : Phong tục Do thái
không cho phép đàn ông nói chuyện với
phụ nữ nơi công cộng. Làm như vậy,
Đức Giê-su đã bãi bỏ tục lệ
này vì sứ mệnh rao giảng Tin Mừng
quan trọng hơn thói tục của người
đời. Người đến với tha
nhân, bất kể họ là ai hay thuộc phái tính,
dân tộc nào, để đem Tin Mừng cứu
rỗi cho họ. + Đến mà xem : có một
người đã nói với tôi về tất
cả những gì tôi đã làm : Thực
ra Đức Giê-su mới chỉ nói về những
người chồng của người phụ nữ
này chứ chưa nói về tất cả những
gì chị đã làm. Nhưng khi nói với
dân chúng, chị ta đã phóng đại lên
để cho người ta dễ tin theo mà thôi.
- C 30-38 : + “Thầy phải dùng
một thứ lương thực mà anh em không
biết” : Đức Giê-su muốn dựa vào
của ăn phần xác mà các môn đệ mời
Người để nói về của ăn thiêng
liêng mà các ông chưa biết. + Lương thực
của Thầy là thi hành ý muốn của
Đấng đã sai Thầy : Đức
Giê-su coi việc làm theo thánh ý Chúa Cha chính là lương
thực của Người. + Đồng lúa
đã chín vàng đang chờ ngày gặt
hái !: Đức
Giê-su dựa vào câu tục ngữ người
nông dân hay nói : “Bốn tháng có qua, mùa gặt
có tới”. Qua đó Người nói
đến mùa gặt thiêng thiêng là cánh
đồng truyền giáo đã chín vàng, vì
dân Sa-ma-ri sắp kéo tới để gặp Người.
Đây là hoa trái đầu mùa của mùa
gặt Thiên Sai. + Đồng lúa đã chín
vàng đang chờ ngày gặt hái ! : Trong
Cựu Ước, mùa gặt tượng
trưng sự phán xét của Thiên Chúa,
hoặc niềm vui ơn cứu độ (x. Is 9,2;
Am 9,13, Tv 126,5). Trong Tân Ước, mùa gặt tượng
trưng cho hoa quả của việc truyền giáo (x.
Mt 9,37). Đức Giê-su gợi lên niềm vui và
phần thưởng của thợ gặt là
các tông đồ, khi các ông giúp nhiều người
tin để được hưởng hạnh phúc
Nước Trời. + Câu tục ngữ
“Kẻ này gieo, người kia gặt” quả
là đúng !: Câu
tục ngữ này được hiểu như
sau : Người gieo chính là Đức
Giê-su và hạt giống là Tin Mừng (x. Lc
8,11); Thợ gặt là các môn đệ. Mặc
dù các ông chưa được sai đi, nhưng
Đức Giê-su đã thấy trước viễn
ảnh tốt đẹp là hoa quả do việc truyền
giáo mang lại. Việc Người sắp chịu
chết trên thập giá giống như hạt giống,
phải chết đi mới sinh ra nhiều hoa trái
(x. Ga 12,24). Công việc truyền giáo là một việc
tập thể mỗi người một nhiệm vụ:
“Người gieo kẻ gặt”. Do đó khi việc
tông đồ mang lại nhiều kết quả thì
đừng nghĩ rằng đó là thành quả do công
sức của riêng mình.
- C 39-42 : + Ông ấy nói với
tôi mọi việc tôi đã làm : Lời
chứng của người phụ nữ được
coi là dấu chỉ, là giai đoạn đầu
dẫn dân thành đến niềm tin vào Đức
Giê-su. + Dân Sa-ma-ri xin người ở lại
với họ, và Người đã ở
lại đó hai ngày. Số người tin vì
lời Đức Giê-su nói còn đông hơn
nữa : Đức tin sẽ được
tiếp tục triển nở nhờ lời
giảng dạy của Đức Giê-su. + “Không còn
phải vì lời chị kể mà chúng tôi
tin. Quả thật, chính chúng tôi đã nghe và
biết rằng : Người thật là Đấng
Cứu Độ trần gian” : Qua lời
của dân thành Sa-ma-ri, chúng ta thấy một đức
tin trưởng thành thì không được dựa
vào người khác như cha mẹ, vợ
chồng, người thân hay theo số đông, mà phải
do sự lắng nghe và thực hành lời Chúa.
3. CÂU HỎI :
1) Cách tính giờ của người Do
thái thế nào ? 2) Đức Giê-su chủ
động xin nước uống với người
phụ nữ Sa-ma-ri nhằm mục đích gì
? 3) Nước Hằng Sống mà Đức
Giê-su hứa ban là thứ nước gì
? 4) Lời Đức Giê-su dạy thờ Thiên
Chúa vô hình trong Thần Khí và Sự Thật
phải chăng là Người bãi bỏ tất cả
các lễ nghi thờ phương bề ngoài ?
5) Câu chuyện người phụ nữ Sa-ma-ri hôm
nay dạy ta bài học gì về sứ mệnh
loan báo Tin Mừng ? 6) Câu nói của dân làng
cho thấy hiệu quả của Lời Chúa tác động
thế nào nơi những người tin ?
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA : “Ai uống nước
này, sẽ lại khát. Còn ai uống nước
tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa” (Ga
4,13-14a).
2. CÂU CHUYỆN :
1) ĐỨC GIÊ-SU - “NƯỚC HẰNG
SỐNG” MANG LẠI HẠNH PHÚC ĐỜI ĐỜI :
Cách đây ít lâu, một số chị em người
Bỉ khi suy niệm đoạn Tin mừng này,
đã cùng nhau lập một tu hội tên là “Ô
Vi” (Eau Vive) dịch là “Nước Hằng Sống”.
Ngoài việc cầu nguyện trước Chúa
Thánh Thần mỗi ngày, chị em còn mở
quán ăn phục vụ khách. Trong quán, các
chiêu đãi viên chính là các nữ tu. Châm
ngôn của tu hội là “Phục vụ Chúa trong các
thực khách”. Mỗi buổi tối vào giờ
đóng cửa, chị em biến quán ăn trở
thành nhà nguyện. Các thực khách
được mời ở lại tham dự
giờ chia sẻ Lời Chúa. Mọi người
sẽ được nghe Lời Mặc Khải
là Nước Hằng Sống như Đức
Giê-su đã hứa ban cho người phụ nữ
Sa-ma-ri xưa.
2) SỨC MẠNH LÔI CUỐN CỦA LÒNG BÁC
ÁI ĐÍCH THỰC :
Có một người đàn ông nọ mới
xin theo đạo. Một hôm có người muốn
thử đức tin của ông ta liền lên tiếng
hỏi : “Ông theo đạo Công giáo, nhưng ông có biết
Đức Giê-su là ai không?” Người tân tòng
trả lời : “Dĩ nhiên là tôi biết chứ”.
Người kia hỏi tiếp : “Thế Đức
Giê-su sinh ra tại đâu ?” Người tân tòng im
lặng không trả lời được. Người
kia hỏi tiếp : “Đức Giê-su chết năm bao
nhiêu tuổi ?” Một lần nữa, người
tân tòng lại không thể trả lời. Người
kia liền kết luận : “Ông chẳng hiểu biết
gì về đạo. Vậy tại sao ông lại gia nhập
đạo ?” Bấy giờ người tân tòng
mới nói : “Thú thật với ông : tôi biết
rất ít về giáo lý. Nhưng điều tôi
biết rất rõ là : Cách đây hai năm, do nợ
ngân hàng không thanh toán được đúng
hạn, nên gia đình tôi bị đuổi ra khỏi
nhà mình và phải lang thang nay đây mai đó. Trong
thời gian ấy, tôi trở nên nghiện rượu
và hay la mắng vợ con. Vợ tôi lúc
nào cũng buồn sầu khóc lóc. Các con
tôi thì luôn sợ nhìn thấy bộ mặt ba của
chúng. Nhưng sau đó một năm, tôi may mắn
đã gặp được một linh mục
tốt bụng. Ông đã tận tình giúp đỡ
gia đình tôi vượt qua khó khăn : Ông giúp
tôi có việc làm ổn định, và giúp
gia đình tôi trở nên con cái Chúa, còn
giúp tôi sống tiết độ hơn. Hiện nay tôi
đã lấy lại được căn nhà
cũ. Vợ chồng tôi sống rất hòa hợp
hạnh phúc. Các con tôi đều khỏe mạnh,
học hành tiến bộ và ngoan ngoãn hiếu
thảo. Tôi xác tín rằng : Chính Đức
Giê-su đã biến đổi gia đình tôi từ
khi tôi gặp được Người qua con
người của một vị linh mục !”
Quả thật, đúng như lời
Đức Giê-su đã phán trong Tin Mừng hôm
nay : “Ai uống nước tôi cho sẽ trở thành
nơi người ấy một mạch nước
vọt lên đem lại sự sống đời
đời” (Ga 4,14).
3) LÒNG MẾN CHÚA PHẢI THỂ HIỆN
QUA ĐỨC YÊU NGƯỜI :
Vào một đêm trăng sáng, khi nhìn qua cửa sổ, vị
tu sĩ già nhìn thấy một thiên thần đang ngồi
trên một tảng đá trong khu vườn phía sau tu viện.
Thiên thần cầm bút viết vào quyển sổ vàng để
trước mặt. Lòng tràn ngập niềm vui, vị tu sĩ
tiến lại gần thiên thần và lên tiếng hỏi :
“Ngài đang viết gì vào sổ vàng thế ?” Thiên thần
trả lời : “Ta đang ghi tên những tín hữu đủ
điều kiện để được lên thiên
đàng”. Vừa hồi hộp và lo lắng, vị tu sĩ
liền hỏi thiên thần xem trong sổ vàng có tên của
mình không ? Thiên thần liền lần giở từng trang sách
ra dò, nhưng tìm mãi mà vẫn không thấy tên của vị
tu sĩ. Thiên thần cho biết sở dĩ ông chưa
được ghi tên vào sổ vàng, vì ông còn thiếu lòng mến
Chúa. Bấy giờ vị tu sĩ lên tiếng hỏi thiên
thần : “Tuy tôi chưa mến Chúa đủ, nhưng nếu
tôi có tình thương tha nhân thì tôi có được ghi tên
trong sổ vàng không?”. Nghe vậy, thiên thần liền gật
đầu đồng ý. Thế là từ hôm đó, vị
tu sĩ nhiệt tình thực hành bác ái bằng việc
hăng say phục vụ những người bệnh tật,
đui mù và nghèo khổ bất hạnh.
Sau khi vị tu sĩ qua đời, anh em
trong dòng đã tìm thấy cuốn nhật ký của vị
tu sĩ. Trong đó, ông đã viết ở trang đầu
tiên như sau : ”Nếu ai nói mình yêu mến Chúa mà lại ghét
anh em mình thì đó là kẻ nói dối, vì kẻ không yêu mến
người anh em nó thấy đó, tất không thể yêu mến
Thiên Chúa mà nó không thấy” (1 Ga 4,20). Tiếp theo là lời tâm
tình của vị tu sĩ : ”Lúc đầu tôi đi tìm Thiên
Chúa, nhưng tôi chẳng thể gặp được vì
Ngài là Đấng thiêng liêng; tiếp đến, tôi đi
tìm linh hồn tôi, nhưng tôi không tìm được, vì linh
hồn có đặc tính vô hình; Rồi sau cùng, khi tôi quyết
tâm tìm kiếm tha nhân và yêu thương họ, bằng việc
chia sẻ và âm thầm phục vụ họ như phục
vụ Chúa, thì tôi đã gặp cả Thiên Chúa và linh hồn
mình” (Trích “Mỗi ngày một tin vui”).
4) LÒNG THAM SẼ DẪN ĐƯA NGƯỜI
TA LẠC XA CHÚA :
Có một anh thợ đào vàng mới chết và đến
cổng Thiên Đàng xin thánh Phê-rô mở cửa cho vào. Thánh
nhân hỏi : “Ở trần gian anh làm nghề gì ?” Anh thưa
: “Con làm thợ đào vàng”.
Thánh Phê-rô liền nói : “Trên thiên đàng hiện đã có
quá nhiều thợ đào vàng rồi”. Nhưng anh ta vẫn
nài nỉ : “Xin ngài cứ cho con vô, để con sẽ cầm
đầu bọn nó, không để chúng do lòng tham mà tranh
giành nhau làm mất an toàn trật tự trên thiên đàng”.
Sau đó anh chàng đã được thánh Phê-rô cho vào
thiên đàng. Trước tiên anh ta đi tham quan một vòng
quanh thiên đàng và đã gặp nhiều bạn bè đào
vàng trước kia. Bấy giờ anh liền rỉ tai một
người bạn và nói như sau : “Tớ nghe đồn
là dưới hoả ngục có một mỏ vàng cực lớn.
Chú mày hãy mau đi rủ bạn bè xuống dưới
đó mà đào”. Thế là chỉ sau một thời gian ngắn,
các tay thợ đào vàng liền bỏ thiên đàng, mang theo
cuốc xẻng nhảy xuống hoả ngục đi tìm
vàng.
Còn lại một mình, anh thợ đào vàng đứng
ngồi không yên. Anh liền xin thánh Phê-rô cho xuống hoả
ngục để xem tình hình ra sao. Biết đâu ở
đó thực sự có mỏ vàng thì sao ? Vì anh thấy bọn
bạn cũ của anh đã vào hoả ngục lâu rồi
mà vẫn chưa quay lại” Thánh Phê-rô liền khuyên anh : “Con
đừng có ảo tưởng ! Dưới hỏa ngục
làm sao có mỏ vàng được, trái lại, chỉ có
đau khổ nước mắt và thói xấu ganh ghét mà
thôi. Nhưng anh chàng kia không nghe lời khuyên, cứ quyết
định leo rào ra ngoài để tìm đường
đi xuống hỏa ngục.
Than ôi ! Thế là chính vì lòng tham không đáy mà cả bọn
thợ đào vàng đều bị mất hạnh phúc thiên
đàng. Ngày nay trên trần gian, do lòng tham không đáy, mà nhiều
người cũng hứa sẽ sẵn sàng hy sinh hạnh
phúc riêng mình để chạy theo lòng tham vàng bạc vật
chất, nhắm mắt phạm các tội ác nghiêm trọng
như : cướp của, giết người… để
rồi phải vào tù chịu hình phạt đau khổ
đời này và còn chịu bất hạnh hỏa ngục
đời sau.
3. SUY NIỆM :
1) ĐỨC GIÊ-SU LÀ “NƯỚC HẰNG SỐNG”
CỦA NHÂN LOẠI :
Tin Mừng CN hôm nay tường thuật cuộc
đối thoại tại bờ giếng Gia-cóp,
giữa Đức Giê-su với người
phụ nữ Sa-ma-ri đại diện cho dân ngoại.
Qua đó, Người đã từng bước
mặc khải cho chị ta về ơn cứu độ.
Đức Giê-su đã chủ động xin chị ta nước
uống vật chất, để sau đó hứa ban cho chị
“Nước Hằng Sống”. Tiến trình đức
tin nơi chị phụ nữ Sa-ma-ri trong Tin Mừng như
sau :
- Đầu tiên Đức Giê-su đi bước trước
mở lời : “Cho tôi chút nước uống” (c.
7). Xin nước không phải cần nước uống,
nhưng nhằm bắc một nhịp cầu vượt
qua hố ngăn cách giữa hai dân tộc Do thái
và Sa-ma-ri. Tuy cùng là con cháu của tổ phụ Gia-cóp,
nhưng do hoàn cảnh lịch sử đã phân thành hai dân tộc
nghi kỵ nhau và không giao tiếp với nhau, như lời
chị phụ nữ Sa-ma-ri nói với Đức Giê-su
: “Ông là người Do thái mà lại xin tôi,
một phụ nữ Sa-ma-ri cho ông nước uống
hay sao ?” (c. 9). Sau đó, từ nước giếng vật
chất, Đức Giê-su đã từng bước mặc
khải cho chị ta về “Nước Hằng Sống”
(c. 10).
- Chính do hiểu lầm hiềm khích mà hai dân tộc Do
thái và Sa-ma-ri đã chia rẽ nhau về đức tin : Người
Do thái chỉ thờ Đức Chúa tại Đền
Thánh Giê-ru-sa-lem, đang khi người Sa-ma-ri lại muốn
phải thờ Đức Chúa tại núi Ga-ri-dim ! Còn
theo Đức Giê-su : Người ta không được
giới hạn Thiên Chúa tại đền thờ vật
chất tại Giê-ru-sa-lem hay trên núi Ga-ri-dim. Thiên Chúa là Đấng
vô hình như “Gió” và “Thần Khí”, sự thờ
phượng đúng đắn nhất là thờ Thiên
Chúa trong “Thần Khí” và “Sự Thật” (c.
20-24).
2) PHẢI THỜ CHÚA TRONG THẦN KHÍ VÀ SỰ
THẬT :
Đức Giê-su dạy phải thờ phượng Thiên
Chúa như sau : “Nhưng giờ đã đến, và
chính lúc này đây, giờ những người thờ phượng
đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần
khí và sự thật, vì Chúa Cha tìm kiếm những ai thờ
phượng Người như thế” (Ga 4, 23).
- Phải thờ Thiên Chúa trong Thần Khí :
Ðức Giê-su nói : “Thiên Chúa là Thần Khí, và những
kẻ thờ phượng Ngài phải thờ phượng
trong Thần Khí và Sự Thật”. Ngày nay nhiều người
cũng đồng quan điểm khi chủ trương :
“Đạo tại tâm”. Thánh Phao-lô cũng nói : “Nào anh em chẳng
biết rằng anh em là Ðền Thờ của Thiên Chúa, và
Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em sao” (1 Cr 3,17). Mỗi
người tín hữu chúng ta hôm nay cũng cần xin ơn
Chúa Thánh Thần giúp ta thực thi đức tin bằng
đức cậy là cầu nguyện dâng lễ; và bằng
đức mến là phục vụ tha nhân.
- Phải thờ Thiên Chúa trong Sự Thật :
Sự thật là chính Đức Giê-su như Người
đã tuyên bố : “Thầy là con đường, là sự
thật và là sự sống” (Ga 14,6). Ma quỷ là cha của
sự dối trá và các môn đệ của Đức Giê-su
phải tránh dối trá như các đầu mục dân Do
thái đã bị Đức Giê-su quở trách : “Cha các ông là
ma quỷ, và các ông muốn làm những gì cha các ông ham thích. Ngay
từ đầu, nó đã là tên sát nhân. Nó đã không đứng
về phía sự thật, vì sự thật không ở trong nó.
Khi nó nói dối là nó nói theo bản tính của nó, bởi vì
nó là kẻ nói dối, và là cha sự gian dối” (Ga 8,44). Còn
Thiên Chúa của chúng ta thờ là Thiên Chúa của sự thật,
vì thế, những kẻ gian dối, sẽ không thể gặp
được Ngài là Sự Thật. Do đó mỗi người
chúng ta cần có một lương tâm ngay thẳng: “Có thì nói
có, không thì nói không” (Mt 5,36), không quanh co, lươn lẹo,
gian dối, nói một đàng làm một nẻo… thì mới
có thể gặp gỡ Ngài.
3) SỨ MẠNG TRỞ THÀNH MẠCH “NƯỚC
HẰNG SỐNG” CHO THA NHÂN :
Trong Tin Mừng hôm nay Đức
Giê-su nói về sứ vụ của người tín hữu
như sau : “Ai uống nước này, sẽ lại
khát. Ai uống nước tôi cho, sẽ không bao
giờ khát nữa. Và nước tôi cho
sẽ trở thành nơi người ấy một
mạch nước vọt lên, đem lại sự
sống đời đời” ? (Ga 4,13-14). Cũng
như ông Phi-lip-phê sau khi đã gặp và tin Đức Giê-su,
liền đi tìm bạn mình là Na-tha-na-en để chia sẻ
niềm tin (x. Ga 1,45); Ma-ri-a Ma-đa-lê-na sau khi gặp Chúa Phục
Sinh cũng vội đi tìm các môn đệ để loan báo
Tin vui gặp Chúa Phục Sinh (x. Ga 20,18); Người phụ
nữ Sa-ma-ri-a trong Tin Mừng hôm nay sau khi gặp gỡ và
tin Đức Giê-su, cũng đã chạy vội về làng
loan báo cho mọi người : “Đến mà xem : có một
người đã nói với tôi tất cả những gì
tôi đã làm. Ông ấy không phải là Đấng Ki-tô sao ?”
(Ga 4,29). Mọi người nghe lời chị nói đã kéo
nhau đến gặp Đức Giê-su và mời Người
vào ở trọ trong làng của họ. Sau khi nghe giảng và
tin Người là Đấng Thiên Sai, họ đã khẳng
định niềm tin qua câu nói : “Không còn phải vì lời
chị kể mà chúng tôi tin. Quả thật, chính chúng tôi
đã nghe và biết Người thật là Đấng cứu
độ trần gian” (Ga 4,42).
4) LÀM GÌ ĐỂ
SỐNG VÀ TRUYỀN BÁ ĐỨC TIN HÔM NAY ? :
- Trong những ngày Mùa Chay này, chúng
ta cần dành nhiều thời gian để
đến gặp gỡ Chúa Giê-su trong thánh
lễ, qua các buổi tĩnh tâm Mùa Chay, các giờ
kinh tối gia đình… Nhờ đó chúng ta sẽ
có một nguồn suối làm thỏa mãn cơn khát
nội tâm, và làm cho lòng chúng ta trở
thành một mạch nước mới dẫn
đến ơn cứu độ.
- Cần hãm mình ăn chay để có điều kiện
làm nhiều việc bác ái yêu thương như phương
thế truyền giáo hữu hiệu trong hoàn cảnh xã hội
hôm nay : Đức Thánh Cha Phao-lô VI đã khẳng định
: “Trong thế giới hôm nay người ta cần những
chứng nhân hơn là thầy dạy và nếu họ có nghe
thầy dạy thì thầy dạy đó cũng là chứng
nhân”. Câu chuyện sau đây chứng minh điều
này:
“Có một người đàn ông nọ mới
theo đạo. Một hôm có người muốn thử
đức tin của ông liền hỏi : “Anh theo đạo
nhưng có biết Đức Giê-su là ai không ?” Người
tân tòng trả lời : “Dĩ nhiên là biết
chứ”. Người kia hỏi tiếp : “Thế
Đức Giê-su sinh ra tại đâu ?” Người
tân tòng im lặng không trả lời được.
Người kia hỏi tiếp : “Thế Đức
Giê-su chết khi được bao nhiêu tuổi ?” Một
lần nữa, người tân tòng lại không
biết. Người kia liền nói : “Anh chẳng
biết gì về đạo. Vậy tại sao anh lại
theo đạo ?” Bấy giờ người tân tòng
mới nói : “Thú thật với anh : tôi biết
rất ít về giáo lý. Nhưng điều tôi
biết rất rõ là : Cách đây hai năm, do nợ
ngân hàng mất khả năng chi trả, nên gia đình
tôi lâm vào hoàn cảnh khốn cùng bị đuổi ra khỏi
nhà để sống lang thang nay đây mai đó. Trong
thời gian ấy, tôi buồn chán đi uống rượu
và trở thành một kẻ luôn say xỉn và khi về đến
nhà là lại la mắng vợ con. Vợ tôi lúc
nào cũng buồn rầu khóc lóc. Các con
tôi thì luôn sợ phải nhìn thấy mặt ba của
chúng. Nhưng sau đó. tôi rất may đã
gặp được một linh mục tốt bụng.
Ông đã tận tình giúp đỡ gia
đình tôi vượt qua cơn khó khăn: Ông
giúp tôi có được một công việc thu
nhập ổn định, và giúp gia đình
tôi trở thành con Thiên Chúa. Ông còn giúp bản
thân tôi trở thành một con người sống tiết
độ và có trách nhiệm hơn đối với gia
đình của mình. Hiện nay tôi đã đòi lại
được căn nhà cũ trước kia. Vợ
chồng tôi sống với nhau rất hòa hợp hạnh
phúc. Các con tôi đều khỏe mạnh, học
hành tiến bộ và luôn ngoan ngoãn hiếu thảo.
Tôi xác tín rằng : “Chính Đức
Giê-su đã biến đổi gia đình tôi từ
khi tôi gặp được Người qua trung
gian một vị linh mục !” Quả thật
đúng như lời Đức Giê-su đã phán
trong Tin Mừng hôm nay : “Ai uống nước tôi cho
sẽ trở thành nơi người ấy một
mạch nước vọt lên đem lại sự
sống đời đời” (Ga 4,14b).
4. THẢO LUẬN : Bạn sẽ làm gì
để đức tin vào Đức Giê-su trở thành nguồn
Nước Hằng Sống cho bạn bè và người
thân ?
5. NGUYỆN CẦU :
LẠY CHÚA GIÊ-SU. Xin hãy biến đổi chúng
con trong Mùa Chay này. Xin cho chúng con gặp
được Chúa trong thánh lễ, những
buổi tĩnh tâm và qua những người nghèo
khó … Xin cho chúng con được uống Nước
Hằng Sống là Lời Chúa. Nhờ
đó, cuộc đời của chúng con sẽ
vui tươi hạnh phúc hơn. Xin cho chúng con quảng
đại tha thứ, quên mình phục vụ và
luôn đi bước trước đến với
tha nhân, như Chúa đã đi bước trước
bắt chuyện với người phụ nữ
Sa-ma-ri trong Tin Mừng hôm nay.- AMEN,
LM ĐAN VINH - HHTM
|