·
TÀ GIÁO, BỘI GIÁO , LY GIÁO LÀ
NHỮNG TỘI GI ?
Hỏi : xin cha giải thích thế nào là Tà giáo, Bội giáo và Ly giáo
trong Giáo Hội
Trả lời:
Lịch sử Giáo Hội trên
2000 năm đã trải qua nhiều khó khăn và thách đố
đến từ
bên trong cũng như từ bên
ngoài. Con Thuyền Phê rô đã nhiều phen bị
chao đảo
vì sống gió tứ bề nổi lên uy hiếp. Nhưng ơn Chúa vẫn đủ để giúp
đứng vững ,và “
quyền lực của tử thần sẽ không thắng nổi ” như Chúa Giêsu đã hứa
khi Người
thiếp lập Giáo Hội và trao
quyền lãnh đạo cho Phêrô. ( Mt 16: 18).
Những khó khăn lớn từ bên ngoài đưa tới là những cuộc bách đạo ngay từ thế kỷ
đầu của Giáo Hội sơ khai cho đến ngày nay, khiến cho hầu hết các Tông Đồ và rất
nhiều giáo hữu đã
được phúc tử đạo, vì đã kiên cường bảo vệ và sống đức tin
Kitô Giáo trước mọi thế lực thù nghịch muốn tiêu diệt. Nhờ máu các
anh hùng tử
đạo đổ ra mà hạt giống đức
tin đã đâm bông, phát sinh hoa trái xum xuê ở khắp
mọi nơi trên cánh đồng truyền giáo, khiến cho Giáo Hội không những
đứng vững
mà còn tăng trưởng mạnh mẽ
về mọi mặt cho đến ngày nay.
Ngoài khó khăn trên, Giáo Hội –qua thời gian- còn phải đương đầu với những tà
thuyết , như thuyết vô ngộ,( Gnosticism) thuyết tương đối ( Relativism) , thuyết vô
thần( Atheism), thuyết
cộng sản ( communism), chũ nghĩa vật chất ( materialism)
chủ nghiã chuộng khoái lạc ( hedonism) chủ nghĩa tục hóa(
secularism) cùng với
“văn hóa của sự chết” ( culture of death)…tất cả đều có hại cho
niềm tin Kitô
Giao mà Giáo Hội có bổn phạm phải chống đỡ để hướng dẫn con cái mình giữ
vũng đức tin trước mọi thách đô của thế giới tục hóa xưa và nay.
Và để giữ vững đức tin KitôGiáo , Giáo Hội còn phải đương đầu với
ba tà thuyết
xuất phát từ bên trong , đó là
Tà giáo ( heresy) bội giáo ( Apostasy) và Ly giáo
( Schism).
1-Tà giáo là gì ?
Tà giáo ( heresy) hay lạc
giáo tức rối đạo , là chối hay nghi ngờ một chân lý đức
tin đã được mặc khải
mà Giáo Hội tin và
giảng dạy cho con cái mình phải
tin
và tuân giữ cho được rỗi
linh hồn. Thí dụ tín điều về Thiên Chúa
Ba Ngôi, Ngôi
·
thứ Hai xuông thế làm Người sinh bởi Đức Trinh Nữ Maria nhờ quyền
năng của
Chúa Thánh Thần. Tín điều
Đức Mẹ trọn đời đồng trinh và lên trời
cả hồn xác,
Tin điều các Thánh Thông
Công, tin xác loài người ngày sau sống
lại v.v..
Như vậy , nếu ai chối bỏ hay
hoài nghi một trong những điều phải tin
thì mắc tội
rối đạo hay tà giáo, đặc biệt là
những ai dạy điều gì trái với
niềm tin Kitô Giáo.
Giáo luật của Giáo Hội cũng nói rõ
tà giáo hay lạc giáo là “ cố chấp phủ nhận
hay nghi ngờ một chân lý phải tin, sau khi được chịu phép Rửa tội …( x giáo
luật số 751)
Trong thời Tân Ước, Thánh Phao lô đã tố cáo nhứng kẻ mượn danh
Tông Đồ để
giảng dạy những điều sai lạc về Đức tin như sau:
“ Điều tôi làm, tôi sẽ
tiếp tục làm, để những kẻ muốn có cơ hội tự phu là
những người ngang hàng với chúng tôi, không còn có cơ hội đó nữa.
Vì những
kẻ đó là tông đồ giả , là thợ gian xảo, đội lốt
tông đồ của Chúa Kitô.” ( 2 Cor
11: 12=13)
Thánh Phê rô cũng đã lưu ý
tín hữu về sự xuất hiện của những tiên tri giả,
nhừng thầy dạy sai lầm,
khiến gây hoang mang cho giáo hữu thời sơ khai
như
sau:
“ Trong dân cũng đã
xuất hiện những ngôn sứ giả; giữa anh em
cũng vậy,
sẽ có những thầy dạy giả
hiêu ; đó
là những kẻ sẽ lén lút đưa vào nhừng tà
thuyết đẫn tới diệt vong…” ( 2 Pr 2)
Thánh Gioan cũng nói về
nguy cơ có những thầy dạy không thuộc
hàng ngũ
Tông Đồ. Đó là các kẻ phản Kitô
vì sẽ dạy những điều sai lầm, sai lạc giáo lý của
Chúa:
“Chúng xuất thân từ
hàng ngũ chúng ta. Nhưng không phải là người của
chúng ta . Vì nếu là người của chúng ta, chũng đã ở lại với chúng ta.Nhưng
như thế mới rõ: Không phải ai ai cũng là người của chúng ta. 1 Ga 2: 19)
Sau đây là một vài điển
hình về những người đã dạy sai lạc giáo
lý đức tin, trong
mấy thế kỷ đầu của Giáo Hội. Đó là
Arius,Nestorius và Pelagius :
·
Arius là một linh mục ở Alexandria, đã dạy sai lầm là Chúa Giê su
không cũng bản
thể và uy quyền với Chúa
Cha, khi xuống trần gian làm Con Người , sinh bởi Đức
Trinh Nữ Maria. Tà thuyết này đã bị Công Đồng Nicaea năm 325 lên án và bác bỏ
vì sai lạc hoàn toàn với giáo lý của Giáo Hội về Ba Ngôi Thiên
Chúa cũng một bản
thể ( substance) và
oai quyền ( dignity).
Cùng chia sẻ sai lầm với Arius là Nestorius, một linh mục
khác ở Antioch năm
428 A,D cũng phân biệt thần tính ( divine nature ) và nhân tính (
human nature)
của Chúa Kitô, và cho rằng Mẹ Maria chỉ là Mẹ về mặt nhân tính của
Chúa Kitô
mà thôi.
Tà thuyết này đã bị Công Đồng
Ephesus lên án năm 431 vì đã dạy sai lầm về hai
hai bản tính không hề tách
rời nhau của Chúa Kitô như Giáo Hội tin
và dạy không
sai lầm. Từ đó Công Đông cũng tuyên bố Mẹ Maria là Mẹ Thiên Chúa
( Theotokos= God bearer) vì
là Mẹ thật của Chúa Kitô, là Ngôi
Hai cùng bản thể
với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần trong Mầu
Nhiệm Ba Ngôi Một Thiên Chúa.
Từ đó, Giáo Hội cũng dạy
phải kính Lễ Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa trong ngày đầu
năm dương lịch mỗi năm.
Cùng bị lên án với Nestorius là Pelarius , một luân lý gia nghiêm
khắc đã
phủ
nhận tội Nguyên tổ
original sin) với lập luận sai lầm là linh hồn con người do
Chúa tạo dựng nên không thể vướng mắc tội được. Do đó, chỉ
những người
lớn( adults) mới cần rửa tội, còn trẻ con thì không cần, vì chúng
chưa biết phạm
tội.
2- Bội giáo hay chối Đạo ( Apostasy)
Đây là tội rất nghiêm
trọng mà một người đã được rửa tội, đã
tuyên xưng đức tin
nhưng sau đó đã chối bỏ hoàn toàn đức tin về Chúa và về quyền bính
của Giáo
Hội. Tác giả Thư Do Thái đã nói như sau về tội này:
“ Quả thật, những
kẻ đã một lần được chiếu sáng, đã được nếm thử ân
huệ bởi trời , đã được thông chia Thánh Thần, đã được thưởng thức
Lời tốt
đẹp của Thiên Chúa…những kẻ ấy mà sa ngã, thì không thể được đổi
mới một
lần nữa để sám hối ăn năn vì họ đã tự đóng đanh Con Thiên Chúa vào
thập
giá một lần nữa và đã công khai sỉ nhục Người…” ( Dt 6: 4-8)
·
Trong thời Cựu Ước, Dân Do Thái mỗi lần bất trung với Thiên Chúa ,
họ đã phạm
tội này như ngôn sứ Giê rê mia đã nói rõ như sau:
“ Sự gian ác của
ngươi phải sửa trị ngươi
Hành vi phản bội
của ngươi sẽ trừng phạt người
Ngươi phải biết,
ngươi phải thấy rằng
Lìa bỏ ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của ngươi
Không còn kính
sợ Người, thì thật là xấu xa và cay đắng” ( Gr 2: 19)
Tác giả Sách Giô-suê (
Joshua) cũng nói như sau về tội bội giáo:
“ ĐỨC CHÚA, Thần các thần, chinh Người biết và
It-ra-en cũng phải
biết: nếu đó là một cuộc
nổi loạn hay là một tội bất trung đối
với ĐỨC
CHÚA, thì xin Người đừng cứu chúng tôi hôm nay,” ( Joshua 22: 22)
Thánh Phaolô sau này cũng cảnh giác các tín hữu về nguy cơ chối
Đạo như sau:
“ Trước đó phải
có hiện tượng chối Đạo, và người ta sẽ phải thấy xuất
hiện người gian ác, đứa hư
hỏng.” ( Tx 2: 3)
Giáo luật của Giáo Hội cũng nói rõ “ bội giáo là chối bỏ toàn bộ
đức tin Kitô
giáo.” ( Giáo luật số 751)
Như thế, sau khi được rửa tội để gia nhập Giáo hội, ai công khải chối Đạo, bỏ
Đạo, tức chối bỏ mọi niềm tin Kitô Giáo thì mắc tội bội giáo nói trên. ( x giáo luật
số 751)
3- LY GIÁO ( Schism)
Theo ngữ căn ( etymology) Hy lạp thì từ “Schism” có
nghĩa xé rách ra. Áp dụng
vào đời sống của Giáo Hội, thì từ Schism=Ly giáo là hành vi
cố ý rút ra khỏi mọi
hiệp thông trọn vẹn với Giáo Hội Công Giáo, đặt dưới quyền chăn dắt của Đức
Thánh Cha , là Đại Diện duy
nhất thay mặt ( Vicar) Chúa Kitô trong Sứ
mệnh
lãnh đạo Giáo Hội Công Giáo hoàn vũ với sự hiệp thông và vâng
phuc trọn vẹn
của Giám Mục Đoàn ( College of Bishops).
Lich sử Giáo Hội nghi nhận có hai cuộc ly giáo nghiêm trọng đã xẩy ra trong nội
bộ Giáo Hội Công Giáo
Phương Tây (Rome) ( Western Schism) và
giữa Giáo Hội
Phương Tây với một số Giáo Hội Chính Thống Đông phương ( Eastern Orthodox
Churches) được tóm lược như sau:
A. Đại Ly giáo Tây Phương
(
Great Western Schism)
Cuộc ly giáo này kéo dài từ năm 1378 cho đến năm 1417.
Nguyên nhân chính là do sự tranh chấp của một số phe phái trong Giáo Hội
về ngôi Giáo Hoàng La Mã, sau khi Tòa Thánh, dưới triều Đức Giáo
Hoàng
Gregory XI rời đô trở lại Roma từ Avignon ( Pháp) năm 1377.
Thời gian này có ba Giáo Hoàng cũng tranh ngôi Giáo Hoàng La mã.
Đó là
UrbanVI ở Rome, Clement VII ( Pháp) quay trở lại Avignon và Alexander V
do Công Đồng Pisa bầu lên năm
1409 nhưng một năm sau (1410) thì
được
thay thế với Gioan XXIII .Nhưng vị này,sau đó, lại bị coi là ngụy Giáo
Hoàng ( antipope) nên sau
này , năm 1958 Đức Hông Y Roncali được bầu
lên kế vị Đức Thánh Cha Piô XII qua đời , ngài đã lấy lai danh
hiệu Gioan
XXIII cho Giáo Hội.
Trở lại phần trên, Giáo Hội một
lúc đã có ba Giáo Hoàng : Urban VI
ở
Rome, Clement VII ở Avignon và Gioan XXIII ( ngụy giáo hoàng).
Sau nhiều cố gắng điều đình giữa các phe tranh trấp, cuối cùng
Công Đồng
Constance ( 1414-18) đã bầu được Giáo Hoàng mới cho Giáo Hội .
Đó là
Hồng Y Oddo Colona, một
giáo dân chưa có chức linh mục và giám mục.
Nên sau khi được bầu, ngài
đã được chịu chức linh mục và giám mục trước
khi đăng quang để trở thành
Giáo Hoàng Martin V ngày 21 tháng 11 năm
1417. Công Đồng cũng chấp nhận sự từ chức của hai giáo hoàng, một
ở
Avignon , một ở Rome và
truất phế ngụy giáo hoàng Gioan XXIII, chấm
dứt cuộc ly giáo Tây Phương kéo dài từ năm 1378
đến 1417 mà nguyên
nhân chì vì có sự tranh chấp giữa các phe phái trong nội bộ Giáo
Hội Tây
Phương ( Rome) về ngôi vị Giáo Hoàng.
B- Ly giáo Đông Tây (
Easter Schism)
·
Đây là vết thương to lớn và kéo dài lâu nhất từ năm 1054 cho đến
nay mà
vẫn chưa có cơ may hàn gắn.
Đó là cuộc ly giáo giữa Giáo Hội Công Giáo La Mã phương tây và một
số
các Giáo Hội Chính Thống Đông Phương do Thượng Phụ Giáo Chủ ở
Contantinople ( Hy Lạp) cầm đầu.Nguyên nhân thì có nhiều , nhưng
điểm
tín lý quan trọng bất hòa
là từ ngữ Filioque ( and from the Son) trong Kinh
Tin Kinh Nicene của Giáo Hội Công Giáo tuyên xưng Chúa Thánh Thần
bới Chúa Cha và Chúa Con mà ra.Về mặt quyền bình, các Giáo hội
Đông
Phương hiệp thông với Tòa Thượng Phụ Constantinople Hy Lạp không
công nhận vai trò Đai Diên Chúa Kitô của Đức Giáo Hoàng La Mã
trong
việc lãnh đạo Giáo Hội, và
đây là điểm khó hòa giải nhất giữa
Contantinople xưa và Istanbul nay ( thổ Nhĩ Kỳ) với Roma cho đến nay. Hai
bên đã ra vạ tuyệt thông ( anathemas) cho nhau từ năm 1054. Nhưng vạ này
đã được tháo gỡ sau cuộc gặp gỡ lịch sử giữa Thượng Phụ Giáo
Chủ Chính
thống Hy lạp là Athenagoras
I và Đức Thánh Cha Phaolô VI năm 1966.
Hai
Giáo Hội Công Giáo La Mã và Chính Thông Đông Phương đều có chung
nguồn gốc Tông Đồ ( Apostolic succession) vì cũng là kết quả truyền giáo
của hai Thánh Phêrô ( ở Tây phương) và Anrê em ngài
ở Đông Phương. Vì
thể cả hai Giáo hội đều có những bí tích hữu hiệu như nhau.
Ngoài các Giáo Hội Chính Thống Đông Phương, còn có các giáo phái
Tin
Lành ( Protestantism) và
Anh giáo ( Anglican Communion) là những nhóm
Kitô Giáo đã tự ý
tách khỏi Giáo Hội Công Giáo La Mã từ thế kỷ thứ 16
đến nay và cũng chưa trở lại hiệp thông với Giáo Hội Công Giáo vì
những
bất đồng về quyền bính và một vài điểm tín lý, và phụng vụ.
Như vậy, ai đã gia nhập Giáo Hội qua Phép Rửa mà bỏ Đạo để quay
sang
một tôn giáo khác thì mắc
tội ly giáo trên đây, kể cả những nhóm
có ý tách
ra khỏi hiệp thông với Giáo Hôi vì lý do riêng của họ.
Tuy nhiên, để tỏ thiện chí muốn hiệp nhất Kitô Giáo, Giáo Hội Công Giáo
không lên án những anh em
ly khai và luôn hướng về họ với ước mong đạt
được sự hiệp nhất( unity) và hiệp thông trọn vẹn ( full communion) với các
anh em cùng tin Chúa Kitô
và giáo lý của Chúa nhưng đang ở bên ngoài
Giáo Hội.
·
Dầu vậy , các gương xấu
như tà giáo, bội giáo và ly giáo vẫn bị
coi là
những tội mắc vạ tuyệt
thông tiền kết ( đương nhiên mắc vạ) dành riêng
cho Đức Thánh Cha quyền tháo gỡ.( x. giáo luật số 1364& 1)
Ước mong những giải đáp trên thỏa mãn câu hỏi đặt ra.
Lm Phanxicô Xaviê Ngô Tôn Huấn.
|