Hỏi : xin
cha giải thích lại vì sao con người cần phải
làm việc lành để được cứu độ,
mặc dù
Thiên Chúa là tình thương và ơn cứu chuộc của
Chúa Kitô đã quá đủ cho con người
được cứu độ ?
Trả lời :
Để trả lời cho câu hỏi trên, xin
được nhắc lại những điều tôi
đã giải thích rải rác trong nhiều bài viết
trước đây về ơn cứu độ của
Chúa và sự cần thiết phải góp phần của con
người vào ơn cứu chuộc này.
Thật vậy, Thiên Chúa là tình thương.
Người tạo dựng lên con người và vũ
trụ hứu hình này tuyệt đối không vì lợi ích
nào riêng của Người mà chỉ vì Người
muốn chia sẻ hạnh phúc của mình cho con cái loài
người mà thôi. Và mặc dù con người đã sa ngã
qua sự bất vâng phục của Nguyên Tổ loài
người là Adam và Eva khiến cho “sự tội và
sự chết đã xâm nhập trần gian” ( Rm 5: 12),
nhưng Thiên Chúa, Ngài có :
“ nổi giận , giận trong giây lát
Nhưng yêu thương, thương suốt
cả đời.”
( Tv 30(29) : 6)
Vì thế, Người đã sai Con Một là Chúa
Giê-su Kitô đến trần gian làm Con Người
để hy sinh cứu chuộc cho cả nhân loại
đáng phải phạt vì tội lỗi.Như thế,
chính Thiên Chúa đã cứu chuộc loài người nhờ
Chúa Kitô , vì “Thiên
Chúa Đấng cứu độ chúng ta, Đấng muốn
cho mọi người
được cứu độ và
nhận biết chân lý.” ( 1 Tm 2 :
4). Nghĩa là Thiên Chúa không muốn cho ai phải hư
mất đời đời vì phải xa lìa Người
là cội nguồn của mọi vinh phúc, giầu sang
và hoan lạc.
Tuy nhiên, dù với tình thương và ước
muốn quá nhân hậu như vậy cho con
người, Thiên Chúa vẫn cần sự cộng tác
của con người vào công nghiệp cứu chuộc vô
giá của Chúa Cứu Thế Giêsu.
Lý do là dù cho Chúa Giêsu đã đổ máu mình ra và
chết trên thập giá, đã hòa giải con
người với Chúa Cha, và mở đường cho con
người được cứu độ để
sống vinh cửu với Chúa trên Nước Trời mai
sau, nhưng Chúa đã không tiêu diệt hết mọi
mầm mống của sự tội và không
trả lại cho con người tình trạng “ ngây
thơ, công chính ban đầu=
original Innocence and Justice”, một tình trạng ơn phúc
mà Adam và Eva đã được hưởng trước
khi phạm tội bất phục tùng Thiên Chúa. Ở tình
trạng ơn phúc này, hai ông bà không thể sa phạm
tội vì yếu đuối của bản năng, mà
phạm tội vì đã sử dụng “ ý muốn tự
do= free will” mà Thiên Chúa đã ban tặng và tôn trọng cho
con người được tùy ý sử dụng
từ trước cho đến nay, và còn mãi về sau cho
đến ngày hết thời gian.
Lại nữa, về phần con người, dù
được tái sinh qua phép Rửa và trở nên tạo
vật mới, nhưng trong bản tính đã bị băng
hoại vì Tội Nguyên Tổ, vẫn còn những vết
thương, khiến con người vẫn hoàn toàn
yếu đuối trước mọi cám dỗ của ma
quí và thế gian, vì theo giáo lý của Giáo Hội dạy
thì “ tuy nhiên, nơi người đã
được rửa tội, một số những
hậu quả của tội vẫn tồn tại,
như những đau khổ , bệnh tật , sự
chết, hoặc những sự yếu đuối
gắn liền với sự sống như những
yếu đuối về tính tình.v.v và nhất là sự
hướng chiều về tội lỗi mà truyền
thống gọi là tình dục, và theo ẩn dụ ,
được gọi là “lò sinh ra tội=fomes percati”
được để lại cho ta phải chiến
đấu với nó…” ( x SGLGHCG
số 1264)
Như thế, ngoài trở ngại về bản
tính yếu đuối nói trên, con người còn có tự
do để chọn lựa, hoặc chiều theo những
khuynh hướng xấu thúc đẩy mà phạm
những tội nặng nhẹ xúc phạm đến
Chúa là Đấng trọn tốt trọn lành , hoặc
chống lại bản năng hay khuynh hướng xấu
đó để cộng tác với ơn cứu độ
của Chúa hầu trở nên thánh thiện và
được cứu rỗi như lòng Chúa mong muốn.
Nói rõ hơn, ơn cứu độ của Chúa
Kitô không biến đổi con người tới mức
không thể phạm tội được nữa, mà
chỉ hứa hẹn cho ta được cứu rỗi
nếu ta có thiện chí cộng tác với ơn Chúa
để chống lại mọi cám dỗ đến
từ ma quỷ và thế gian là những địch thù luôn
khai thác triệt để bản tính yếu
đưối của con người để xúi dục
ta phạm tội mất lòng Chúa.
Như vậy, nếu con người sử
dụng tự do của mình mà làm những sự dữ
như oán thù, giết người, giết thai nhi, gian tham
,bất công bóc lột người khác, trộm
cắp, cờ bạc, dâm ô, ngoại tình, thay vợ
đổi chồng …thì chắc chắn đã
quay lưng lại với Chúa và khước từ
cộng tác với ơn cứu độ của
Người. Như thế, dù có tuyên xưng ngoài miệng
cả trăm ngàn lần là tin có Thiên Chúa, tin Chúa Kitô là
Đấng cứu chuộc, thì cũng vô ích mà thôi.
Đó là lý do tại sao Chúa Giê su đã nói với các môn
đệ Người xưa kia như sau:
“ Không phải bất cứ ai thưa với
Thầy : Lậy Chúa !, lậy Chúa ! là được vào
Nước Trời cả đâu, mà chỉ ai thi hành ý
muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên
Trời , mới được vào mà thôi.” ( Mt 7: 21)
Làm theo ý muốn của Cha trên Trời có nghĩa
là sống theo đường lối của Chúa ,tức là
bước đi theo Chúa Kitô là “ Con Đường, là Sự Thật và là
sự Sống.” (
Ga 14:6)
Như thế ai bước đi theo thế gian
, và chiều theo những khuynh hướng xấu
của bản năng để làm những việc mà
lương tâm không cho phép như tôn thờ tiền
của và mọi thú vui vô luân vô đạo , gian tham
,độc ác, dâm ô thác loạn, giết người ,phá
thai, bỏ vạ cáo gian..v.v. và không
hề biết ăn năn , chừa bỏ tội
lỗi thì Chúa không thể cứu họ
được, dù Chúa là tinh thương và giầu lòng tha
thứ.
Nghĩa là không được lợi dụng lòng
thương xót của Chúa để cứ đi hàng hai là
một mặt mang danh người Kitô hữu,
nhưng thực tế lại sống phản
chứng hay mâu thuẫn với niềm tin có Chúa là
Đấng chê ghét mọi tội lỗi, vì tội
lỗi là điều xúc phạm nặng nề bản
chất yêu thương, công bình và thánh thiện của
Chúa,
Chúa Giê su chiu đau khổ và chết thê thảm
trên thập giá cũng vì tội lỗi của con
người. Vì thế, muốn được
hưởng công ơn cứu chuộc của Chúa, nhất
thiết đòi hỏi những ai có niềm tin Chúa phải
quyết tâm xa tránh mọi tội lỗi với ơn phù
trợ của Chúa để xứng đáng
được cứu độ và sống hạnh phúc
với Chúa trên Nước Trời mai sau
Nếu Thiên Chúa không cần sự cộng tác
của con người vào ơn cứu độ của
Người, thì trước hết, Thiên Chúa đã
không quở tránh dân Do Thái xưa như sau :
Suốt bốn mươi năm , dòng giống
này làm Ta chán ngán
Ta đã nói : đây là dân tâm hồn lầm
lạc
Chúng nào biết đến đường
lối của Ta
Nên Ta mới nổi cơn thịnh nộ
thề rằng:
Chúng sẽ không được vào chốn yên
nghỉ của Ta.”
( Tv 95: 10-11)
Cũng vì đòi hỏi con người
phải cộng tác -hay tỏ thiện chí muốn
được cứu độ- mà Sau này Giêsu
cũng đã nói với các môn đệ và dân Do
Thái như sau:
“ Hãy chiến
đấu để qua được cửa hẹp
mà vào, vì tôi nói cho anh em biết: có nhiều sẽ tìm
cách vào mà không được.” ( Lc 13: 24)
Qua cửa hẹp là khép mình sống theo các
điều răn Chúa đã dạy là yêu mến Chúa
trên hết mọi sự , yêu người như thể yêu
mình, thương giúp kẻ nghèo khó và xa tránh mọi tội
lỗi đến từ ma quỉ, thế gian và những
khuynh hướng xấu còn tồn tại nơi bản
tính con người.
Nếu không quyết tâm đi qua con
đường hẹp này , mà cứ thích đi trên
những con đường rộng rãi thênh thang nơi
những kẻ chối Chúa và đường lối
của Người đang hiên ngang đi trên
đó , thì công nhiệp cứu chuộc của Chúa Kitô
sẽ trở nên vô ích cho họ, vì họ đã và
đang không tỏ thiện chí muốn sống theo
đường lối của Chúa, hoàn toàn khác xa
đường lối của thế gian và ma quỉ,
kẻ thù của chúng ta, ví được như sư
tử đói ngày đêm rình rập để cướp
linh hồn chúng ta , như Thánh Phê rô đã cảnh cáo ( 1 Pr
5: 8)
Một lần nưa, nếu ai nghĩ rằng
Thiên Chúa quá nhân từ , công nghiệp cứu chuộc
của Chúa Kitô là đủ đảm bảo cho
phần rỗi của mình, nhưng không cộng tác gì
với ơn Chúa để từ bỏ mọi
quyến rũ của trần gian và xa tránh mọi
tội lỗi, thì hãy nghe lại lời Chúa Giêsu đã
nói với một số người đến hỏi Chúa
xem có phải những người bị Tổng Trấn
Phi-la-tô giết chết, cũng như mười tám
người bị thác Si-lô-ê đổ xuống đè
chết có phải họ là những người tội
lỗi hơn mọi người khác hay không , Chúa đã
trả lời như sau :
“ Tôi nói thật cho các ông biết : không
phải thế đâu; nhưng nếu các ông không chịu
sám hối , thì các ông cũng sẽ chết hết y như
vậy.” ( Lc 13: 5)
Như thế rõ ràng cho thấy là dù Thiên Chúa là tình
thương, chậm bất bình và hay tha thứ, và dù cho
công nghiệp cứu chuộc của Chúa Kitô là quá
đủ cho ta được cứu rỗi, nhưng
nếu ta không làm gì về phần mình –hay tệ hại
hơn nữa- là cứ phạm tội, cứ
chiều theo bản năng và cám dỗ của ma quỷ
để làm những sự dữ như giết
người, oán thù, nghen nghét, dâm ô thác oạn và dửng
dưng trước sự đau khổ nghèo đói của
anh chị em kém may mắn hơn mình, thì chắc chắn
Chúa không thể cứu ai có lối sống như vậy.
Nói khác đi, nếu không có công nghiệp cứu chuộc
của Chúa Kitô, thì không ai có thể làm gì để
được cứu rỗi. Nhưng nếu ỷ vào công
nghiệp này và lợi dụng lòng thương xót của
Chúa để sống theo văn hóa của sự
chết, nhập cuộc với những kẻ đang
ngụp lặn trong làn sóng tục hóa, vô luân vô đạo
như thực trạng của thế giới
tục hóa ngày nay, thì công nghiệp cứu
chuộc của Chúa Kitô sẽ ra vô ích cho những
người đó. Chắc chắn như vậy.
Đó là lý do tại sao Chúa Kitô đã nghiêm khắc
ngăm đe như sau trong Sách Khải Huyền:
“ Ta biết việc các ngươi làm:
ngươi chẳng lạnh mà cũng chẳng nóng.
Phải chi ngươi lạnh hẳn, hay nóng hẳn
đi. Nhưng vì ngươi cứ hâm hâm, chẳng nóng
chẳng lạnh, nên Ta sắp mửa ngươi ra
khỏi miệng Ta.” ( Kh 3:
15-16).
Tóm lại, công nghiệp cứu chuộc vô
giá của Chúa Kitô và tình thương vô biên của Thiên Chúa
được tạm ví như dòng nước
cuồn cuộn chảy bên bờ suối . Nhưng
người khát nước nằm bên bờ suối
vẫn chết khát như thường, nếu không tự
cúi xuống mà múc nước lên để uống
, vì nước không có chức năng phải nhẩy vọt
lên từ dòng nước để chảy vào
miệng kẻ khát đang nằm bên bờ suối.
Nếu không có dòng nước kia, thì
người ta sẽ chết khát vì không thể tìm
đâu ra nước mà uống. Vậy phải có
nước trong thiên nhiên đọng trong các sông ngòi ao
hồ do mưa từ trời cao tuôn xuống và đọng
lại ở đây cho con người hưởng dùng
miễn phí. Nhưng người ta phải đi
tìm và múc nước lên từ sông ngòi hay khe suối mà
uống , vì nước kia không bao giờ tự
nhẩy lên khỏi dòng nước mà chảy vào miệng
kẻ khát nước như đã nói ở trên.
Vậy , cúi xuống để múc nước lên
mà uống cho khỏi chết khát, chính là nỗ lực
của con người phải cộng tác với ơn Chúa
để được cứu độ và sống hạnh
phúc vĩnh cửu với Chúa trên Nước Trời.
Nếu không có nỗ lực này thì Chúa không thể cứu ai
được vì Người còn phải tôn trọng ý
muốn tự do ( free will) của mỗi người chúng
ta như đã nói ở trên.
Ước mong những giải đáp này thỏa
mãn câu hỏi được đặt ra.
Lm PX Ngô Tôn Huấn
|