Điều răn
trọng nhất - JKN
Câu hỏi gợi ý:
1.
Theo tinh thần của Đức Giêsu,
thì trong hai điều răn quan trọng nhất ấy,
điều răn nào quan trọng hơn? Phải ưu tiên
sống điều răn nào?
2.
Tại sao thánh Phao-lô tóm toàn bộ
lề luật vào một điều răn duy nhất: «Ai
yêu người, thì đã chu toàn Lề Luật» (Rm 13,8)? Ngài bỏ điều răn yêu Chúa sao?
3.
Nếu bạn là một người cha
đông con, đồng thời là người cha tốt
lành không chút vị kỷ, bạn muốn con cái yêu
thương mình bằng cách nào?
CHIA SẺ
1. Hai điều
răn trọng nhất của Do Thái giáo và Kitô giáo
Người khôn ngoan
thì trong mọi lãnh vực luôn luôn phân biệt điều
chính và điều phụ, điều cốt lõi và
điều «bì phu», điều cần thiết và
điều ích lợi, điều quan trọng và
điều không quan trọng. Phân biệt
như thế không phải để chỉ làm điều
chính và bỏ điều phụ, mà để khi không
thể làm được cả hai, thì phải ưu tiên
cho điều chính. Vì điều chính là
yếu tố quyết định thành công, không thực
hiện nó thì chắc chắn sẽ thất bại. Còn điều phụ, nếu làm được
thì rất tốt, rất ích lợi, có thể làm cho sự
thành công rực rỡ hơn, nhưng không làm
được thì cũng vẫn có thể thành công.
Trong
việc giữ đạo và nên thánh, chúng ta cũng cần
biết điều nào là cốt tủy, là quan trọng
nhất; nếu không giữ điều này thì coi như
chưa phải là giữ đạo, và không thể nên thánh,
cho dù có giữ những điều phụ thuộc một
cách thật hoàn hảo. Bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta biết,
giữa biết bao giới răn, thì giới răn quan
trọng nhất là mến Chúa và yêu người. Đó là
cốt tủy của lề luật: «Tất cả
Luật Mô-sê và các sách ngôn sứ đều tuỳ thuộc
vào hai điều răn ấy». Nếu giữ đạo
mà không phân biệt điều nào chính điều nào
phụ, thì chúng ta dễ giữ đạo theo «kiểu
Pha-ri-siêu» đã bị Đức Giêsu tố cáo: «Các người
nộp thuế thập phân về bạc hà, thì là, rau húng,
mà bỏ những điều quan trọng nhất trong
Lề Luật là công lý, tình thương và lòng chân thành» (Mt
23,23); «Các người lọc con muỗi, nhưng lại
nuốt con lạc đà» (23,24). Hướng dẫn
người khác giữ đạo và nên thánh mà không phân biệt
chính phụ, thì dễ trở thành «những kẻ dẫn
đường mù quáng» (23,16). Do đó,
bài Tin Mừng hôm nay có tầm quan trọng đặc
biệt cho mọi Kitô hữu muốn giữ đạo và
nên thánh.
2. Hai điều
răn tóm lại thành một điều răn: «yêu
thương»
Cũng trong chiều
hướng tìm cái chính yếu, ta có thể tiếp tục
đặt vấn đề: trong hai điều răn ấy, điều răn nào quan trọng,
chính yếu hơn?
Phải nói đây là
hai giới răn rất đặc biệt, có vẻ là hai
giới răn khác nhau, nhưng thật
ra chỉ là hai cách diễn tả khác nhau của một
giới răn duy nhất. Cả hai giới răn chỉ
có một động từ duy nhất là «yêu», đối
tượng của động từ «yêu» này có vẻ là
hai đối tượng khác biệt nhau: tuy có thể phân
biệt rõ rệt trên lý thuyết, nhưng trên thực
tế và thực hành thì dường như không thể phân
biệt, và không nên phân biệt. Vì thế, hai điều
răn ấy «tuy hai mà một», tương tự như hai
trang của cùng một tờ giấy: tuy là hai mặt khác
nhau, nhưng chỉ là một tờ giấy duy nhất.
Thật
vậy, rất nhiều lời trong Thánh Kinh cố tình
đồng hóa Thiên Chúa với tha-nhân-của-chúng-ta. Cụ thể
nhất là trong đoạn nói về cuộc phán xét cuối
cùng (x. Mt 25,31-46), Đức Giêsu đồng hóa chính Ngài với
tha nhân, đặc biệt những người đau
khổ, nhỏ bé, bị khinh thường, áp bức: «Ta
bảo thật các ngươi: mỗi lần các
ngươi làm như thế cho một trong những anh em
bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã
làm cho chính Ta», và «mỗi lần các ngươi không làm
như thế cho một trong những người bé
nhỏ nhất đây, là các ngươi đã không làm cho
chính Ta».
Tại
sao thế? Vì con người là «hình ảnh của Thiên Chúa» (St 1,26-27; 9,6). Có ai yêu một
người mà lại không yêu bức ảnh của
người ấy không? Ta thấy những cặp
tình nhân, khi không có mặt nhau, thường hôn lên ảnh
của nhau. Hơn thế nữa, con người là con cái
của Thiên Chúa: ngay khi được tạo dựng, con
người đã được Thiên Chúa yêu thương
và nâng lên hàng con cái Ngài (x. Kn 5,5; Lc 20,36; Ga
11,52; Rm 8,16). Và Ngài yêu quí con người đến mức,
sau khi họ sa ngã, Ngài đã cho Con Độc Nhất
của Ngài xuống trần, chịu đau khổ và
chết để cứu chuộc họ (x. Ga 13,1; Rm 5,6-8;
14,15b; 1Cr 15,3; 2Cr 5,15; 1Tx 5,10; 1Pr 3,18). Do đó, ai yêu Thiên Chúa,
tất nhiên cũng phải yêu con cái của Ngài, những
người mà Ngài hết mực yêu thương: «ai yêu
mến Đấng sinh thành, thì cũng yêu thương
kẻ được Đấng ấy sinh ra» (1Ga 5,1).
Như vậy, tha
nhân bên cạnh và chung quanh chúng ta chính là
hiện thân cụ thể và gần gũi chúng ta nhất
của chính Thiên Chúa. Vì thế, yêu những
người ấy là yêu chính Thiên Chúa, và không yêu họ chính
là không yêu Ngài. Người Kitô hữu có
đức tin đích thực phải nhìn thấy chính Thiên
Chúa ở nơi những người mình gặp hằng
ngày, và yêu Ngài ở nơi họ. Không
thể yêu Ngài ở nơi một ai khác chính đáng hơn
nơi tha nhân. Chính vì thế, thánh Gio-an mới nói:
«Nếu ai nói: "Tôi yêu mến Thiên Chúa" mà lại ghét
anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không
yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì
không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy»
(1Ga 4,20). Do đó, «ai yêu mến Thiên Chúa
thì cũng phải yêu thương anh em mình» (4,21).
Quả thật, không
phải là phi lý mà thánh Phao-lô và Gia-cô-bê đã tóm lại toàn
bộ lề luật không còn vào hai giới răn, mà vào
một giới răn duy nhất: «Anh em hãy mang gánh nặng
cho nhau, như vậy là anh em chu toàn luật Đức Kitô»
(Gl 6,2); «Ai yêu người, thì đã chu toàn Lề Luật»
(Rm 13,8); «Các điều răn đều tóm lại trong lời
này: Ngươi phải yêu người thân cận như
chính mình. (...) Yêu thương là chu toàn Lề Luật» (13,9-10); «Luật Kinh Thánh được
đưa lên hàng đầu là "Ngươi phải yêu
người thân cận như chính mình"» (Gc 2,8). Không
những ta phải yêu thương những người
chung quanh mình, hy sinh cho họ, mà còn phải làm sao để
họ cũng sống yêu thương và thúc đẩy nhau
sống yêu thương nữa: «Chúng ta hãy để ý
đến nhau, làm sao cho người này thúc đẩy
người kia sống yêu thương và làm những
việc tốt» (Dt 10,24).
3. Thực hiện
việc yêu Thiên Chúa bằng việc yêu tha nhân
Để
dễ hiểu những điều trên, ta hãy xét
trường hợp của một người cha rất
giàu có, rất khỏe mạnh, không thiếu thứ gì,
cũng không cần thứ gì cả. Người cha
ấy có một đàn con đông đảo, nhưng vì
lỗi của chúng nên chúng trở nên nghèo nàn, đau
khổ, thiếu thốn. Nguyên nhân gây nên tình
trạng đau khổ ấy là chúng không biết yêu
thương. Người cha ấy đã tìm
đủ cách để đàn con hạnh phúc hơn,
bằng cách giáo dục để chúng có nhiều tình
thương hơn, vì một khi chúng biết yêu thương
thì tất nhiên và tự nhiên hạnh phúc sẽ đến
với chúng. Thử hỏi người cha
ấy mong mỏi gì nơi đàn con? Chắc chắn
là mong chúng yêu thương nhau (x. Ga 13,34-35).
Có một đứa
con kia mong cha ban cho mình của này vật
nọ, nên chỉ biết nghĩ đến cha, mong hầu
hạ cha, lo cho cha từng chút, đang khi cha đã quá
đầy đủ, chẳng cần ai lo cho mình một
thứ gì. Ngược lại, đối
với những anh em ruột thịt bên cạnh mình
đang đau khổ và thiếu thốn, đang cần
được chăm nom săn sóc, thì người ấy
chẳng thèm đoái hoài đến. Thử hỏi
người cha ấy có hài lòng về cách xử sự
của người con ấy không? Cách xử
sự như thế có hợp lý không? Nếu ta là
người cha ấy, ta sẽ nghĩ gì về đứa
con ấy, ta muốn nó xử sự thế nào?
Nếu ta là
người cha ấy, chắc chắn điều ta mong
mỏi nhất là thấy con cái mình yêu thương nhau, lo
cho nhau, hy sinh cho nhau, và hễ chúng làm được điều
ấy, thì ta sẽ hài lòng vô cùng, vì tình thương của
chúng đối với nhau sẽ làm cho chúng hạnh phúc, là
điều ta mong muốn nhất. Ta nghĩ rằng chính
những đứa biết yêu thương anh em mình một
cách vô vị lợi mới là những đứa con
hiếu thảo, vì chúng có tình thương đích thực. Vì nếu anh em chúng nghèo khó và khó thương mà
chúng còn thương được, ắt chúng phải
thương yêu cha chúng hơn nhiều. Còn
những đứa chỉ nghĩ tới cha mình giàu có, nên
lo chăm chút cho cha đang khi cha chẳng cần
điều đó, mà chẳng hề nghĩ đến anh
em mình, thì tình thương của chúng đối với cha
rất đáng nghi ngờ. Có thể chúng chỉ yêu
bản thân chúng mà thôi, còn việc chúng chăm chút
đến cha có thể chỉ là một chiến thuật
cầu lợi theo sự khôn ngoan ích
kỷ của chúng.
Minh
họa trên cho thấy chúng ta phải yêu mến Thiên Chúa
bằng cách nào. Có thể nói điều răn quan trọng
nhất chính là «yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh
hồn và hết trí khôn». Nhưng phải
thể hiện tình yêu ấy thế nào cho phù hợp
với ý của Thiên Chúa? Qua giáo huấn của
Đức Giêsu, ta thấy cách tốt nhất để
thể hiện tình yêu của mình đối với Thiên
Chúa chính là thực hiện điều răn thứ hai:
«yêu người thân cận như chính mình». Đức
Giêsu đã làm gương về điều ấy.
Ngài chết trên thập giá vì yêu thương con
người, đồng loại của Ngài (với tư
cách Ngài là một con người), nhưng cái chết
ấy chính là lễ hy sinh để thờ phượng
Thiên Chúa được Thiên Chúa đánh giá cao nhất.
Vậy cách thờ phượng Thiên Chúa, yêu mến Thiên Chúa
tốt nhất chính là yêu thương những người
người chung quanh mình, những
người mình gặp hằng ngày, và hy sinh bản thân mình
cho họ.
Cầu nguyện
Tôi nghe Thiên Chúa nói
với tôi: «Cha là Thiên Chúa, Cha không cần và không thiếu
một thứ gì. Vậy thì con yêu Cha cách nào đây? Nếu
con muốn yêu Cha cách thực tế, con hãy yêu Cha nơi những
người sống chung quanh con, họ
chính là hiện thân của Cha ở bên cạnh con. Con yêu
họ, chính là con yêu Cha, và đó là cách tốt nhất
để con tỏ lòng hiếu thảo đối với
Cha».
|