Đức
Kitô, Ngài Là Ai?
(Suy niệm của Lm. Nguyễn Trung Tây)
Có lẽ danh từ Kitô đã trở nên
quá quen thuộc, cho nên nhiều người tín hữu
đã quên mất đi ý nghĩa của danh xưng này. Kitô, chữ Việt Nam hay kristós trong tiếng cổ Hy Lạp,
hay mýh, mêsia, trong tiếng cổ Do Thái có nghĩa
Đấng [được] Xức Dầu. Vua Saolê và vua
Đavít, hai vị vua đầu tiên của dòng lịch
sử ơn cứu độ cũng có thể
được gọi là kitô và mêsia, bởi họ đã
từng được Thiên Chúa xức dầu qua bàn tay
của ngôn sứ Samuel (1Samuel 9,26-27; 10,1; 16,12-13). Cho nên, khi
tuyên xưng Đức Giêsu là Đức Kitô hay Đấng
Mêsia, người tín hữu đang tuyên xưng tôi tin
Đức Giêsu chính là Vua [được Xức Dầu]. Bàn về danh từ thần học Kitô, câu hỏi
được đặt ra trong bài tiểu luận này,
"Đức Kitô, Ngài là ai?"
Do Thái vào thế kỷ thứ nhất
trước Công Nguyên nằm dưới ách thống
trị của đế quốc La Mã. Sống trong tình
trạng nô lệ, bị kìm kẹp bởi người
ngoại bang, dân Do Thái cầu nguyện và chờ
đợi Giavê Thiên Chúa sẽ can thiệp, gửi tới
Đấng Thiên Sai, hay Đấng Kitô, hay Đấng Mêsia.
Đấng Thiên Sai sẽ lãnh đạo dân chúng đánh
đuổi người La Mã ra khỏi đất của
sữa và mật ong - tương tự như thời
Cựu Ước, Giavê Thiên Chúa đã xức dầu phong
vương cho Vua Saolê và Vua Đavít, cả hai đã đánh
đuổi người Philistine ra khỏi đất
hứa. Sau đó cả hai đã thống nhất, xây
dựng Do Thái, biến vùng Đất Hứa trở thành
cường quốc trong vùng Trung Đông vào thế kỷ
thứ 10 và thứ 9 trước Công Nguyên.
Vào một ngày kia, trong vùng đất dân
ngoại, kế cận thành Cêsarê Phêlípphê, nằm phía
đông bắc của Galilê, Đức Giêsu hỏi các môn
đệ một câu hỏi bất ngờ,
-
Người
ta nói Thầy là ai?
Các môn đệ tranh nhau nhắc lại
tên của những vị ngôn sứ trong thời Cựu
Ước,
-
Người
ta nói Thầy là Êlia.
-
Có
người nói Thầy là tiên tri Giêrêmia,
-
Có
người nói Thầy là Gioan Tẩy Giả.
Sau khi lắng nghe các môn đệ tranh
nhau tường thuật lại những điều
người dân đương thời đồn
đại về căn tính của mình, Đức Giêsu
một lần nữa lại cất tiếng hỏi,
-
Vậy
[riêng các con], các con nghĩ Thầy là ai?
Phêrô khẳng khái trả lời,
-
Thầy là Đức Kitô (Lc 9,20), Con Thiên
Chúa hằng sống (Mt 16,13-20).
Qua câu nói này, Phêrô tuyên xưng hai
điều,
1.
Ông
tin rằng Đức Giêsu chính là Đấng Xức
Dầu bởi Thiên Chúa, và nhiệm vụ của Ngài là lãnh
đạo dân Do Thái, đánh đuổi người La Mã,
giải cứu dân chúng thoát khỏi ách thống trị
của ngoại bang;
2.
Điều
này khá mới lạ, Phêrô tin rằng Đức Giêsu chính là
Con của Thiên Chúa.
Không giống như các dân tộc lân bang
thờ phượng đa thần, người Do Thái
chỉ thờ phượng một Giavê Thiên Chúa là Thiên Chúa
duy nhất, “Hỡi Israel, Giavê là Thiên Chúa của chúng ta, Thiên Chúa
duy nhất” (Đệ Nhị Luật 6,4).
Nhưng từ cửa miệng của Phêrô,
một tư tưởng thần học mới đã hé
nụ, đó là, Đức Giêsu Kitô chính là Con Thiên Chúa.
Phêrô là một trong những Kitô hữu
đầu tiên, theo như thánh Matthêu, đã tuyên xưng
mầu nhiệm Ba Ngôi Thiên Chúa, đó là, Giavê Thiên Chúa có ba
bản thể (essence): Ngôi Cha, Ngôi Con và Ngôi Thánh Linh. Tín điều này loài người không bao giờ
hiểu được, nên được gọi là
một Mầu Nhiệm Ba Ngôi Thiên Chúa. Cho nên, sau
lời tuyên xưng của Phêrô, Đức Giêsu đã
cất tiếng khen ngợi người thủ lãnh của
nhóm Mười Hai là ông đã được Thiên Chúa chúc
lành, bởi chính Thiên Chúa đã mạc khải cho Phêrô
biết mầu nhiệm của tín điều Thiên Chúa Ba
Ngôi. Sau đó, Đức Giêsu đổi tên Simon sang Phêrô,
Kêphas, nghĩa là đá. Bắt đầu
từ giây phút đó, Phêrô trở thành nền đá vững
chắc trường tồn của Giáo Hội Kitô.
Sau cùng, người ngư phủ
Biển Hồ cũng được trao ban chìa khóa
Nước Trời. Điều gì Phêrô
cầm buộc, trên trời cũng sẽ cầm buộc.
Điều gì Phêrô tháo cởi, trên trời cũng sẽ
tháo cởi (Mt 16,19). [Thánh Phêrô được minh họa trong tay đang cầm hai chìa khóa. Một vài
người thắc mắc là tại sao Phêrô lại
cầm tới hai chiếc chìa khóa trong tay?
Nguyên văn trong bản tiếng Koiné, thánh
sử Mátthêu sử dụng chữ klêdas, có nghĩa là
những chiếc chìa khóa. Như vậy, vào ngày hôm
đó, Đức Kitô đã trao cho Phêrô không phải chỉ
là một chiếc chìa khóa. Bao nhiêu chìa khóa?
Rất tiếc, thánh Mátthêu không nhắc đến.
Nhưng, có lẽ, dựa vào chi tiết của câu nói
tiếp theo sau đó, “... dưới đất con cầm
buộc điều gì, trên Trời cũng sẽ cầm
buộc, dưới đất con tháo cởi điều
gì, trên Trời cũng sẽ tháo cởi... (Mt 16,19),
người họa sĩ vẽ hình Phêrô nghĩ rằng
Đức Kitô đã trao cho vị Giáo Hoàng tiên khởi hai chiếc
chìa khóa, một chiếc chìa khóa để cầm buộc,
một chiếc chìa khóa để tháo cởi.]
Một
vị tu sĩ kể lại, ngày kia trong khi đang dạo
chơi trên những con đường tấp nập
người của kinh thành Nữu Ước, ông gặp
người bạn cố tri từ hồi bên Việt Nam.
Sau một vài câu chuyện hàn huyên tâm sự, người
bạn nhìn vị tu sĩ e dè hỏi,
- Ông vẫn tin vào
Thượng Đế?
Vị tu
sĩ đáp,
- Vâng, tôi vẫn tin vào Thiên
Chúa.
Tới
phiên vị tu sĩ, ông hỏi lại người bạn,
- Còn ông thì sao, ông tin vào ai?
Người
bạn móc ví, lôi ra tờ giấy 20$ đô la xanh lè,
cười đáp,
- Tôi, tôi tin vào tấm hình
này...
Suy
Niệm
Ngày xưa, Đức Giêsu đã hỏi
các người thân của mình, “Các con nghĩ Thầy là ai?”. Câu hỏi đó, ngày hôm nay, Chúa không hỏi
các môn đệ của Ngài nữa, nhưng Ngài đang
hỏi chúng ta,
-
Con nghĩ Thầy là ai?
Sống trong một xã hội, tiền
bạc là trên hết, có tiền mới có nhà, có bồ, có xe hơi BMW, Mercedez, có, gần như rất
nhiều, chúng ta rất dễ dàng quên đi sự hiện
hữu của Thiên Chúa. Bởi thế, trước câu
hỏi, “Con nghĩ Thầy là ai?”, có
thể tôi bắt đầu gãi đầu, xoa trán, lúng túng
tìm kiếm câu trả lời,
Hình như… Hình như Thầy không còn là
nơi con ẩn náu! Hình như Thầy không còn
phải là Đấng con kiếm tìm. Hình như
Thầy không phải là Thiên Chúa của con nữa, nhưng
là tiền, như người bạn của vị tu
sĩ trong câu chuyện đã từng khẳng định.
Ngày hôm nay, trong một cuộc sống ngập tràn những
tiện nghi vật chất, Laptop mỏng dính, iPod nhẹ
tênh, hình như con không còn cảm thấy nhu cầu cần
phải có sự hiện hữu của Thầy trong
đời sống nữa. Trong một cuộc sống siêu
hành tinh, siêu liên mạng, siêu điện tử, và siêu xa
lộ, Thầy, Đức Kitô Con Thiên Chúa hằng sống
đã được con hạ bệ.
Lời
Nguyện
Lạy
Chúa, một lần nữa, con lại xin lỗi Chúa bởi
con đang lúng túng với chính con khi Chúa đang hỏi, “Con
nghĩ Thầy là ai?” Xin ban lại cho con một quả tim trong sạch. Xin ban lại cho con một
niềm tin quyết liệt để con không còn phải
lúng túng với niềm tin, với chính con trong ngày hôm nay,
ngày mai và vào ngày cuối đời khi con đang
đứng trước mặt Chúa.
|