CẦU NGUYỆN VÀ PHỤC VỤ --- Lm. Xuân Hy Vọng
Hẳn ai trong chúng ta ít nhiều đã từng
nghe đến cái tên An-tôn Frê-đê-ríc O-za-nam [Antoine-Frédéric Ozanam]
(1813-1853), một nhà hoạt động ủng hộ quyền
bình đẳng xã hội; ông cũng là nhà báo kiêm luật
sư và học giả văn chương Công Giáo nổi tiếng
của Pháp vào cuối thế kỷ 19. Thế nhưng thời
còn sinh viên, ông đã từng trải qua cơn khủng hoảng
đức tin sâu sắc như chính câu chuyện ông thuật
lại:
Vào ngày nọ, để tìm chút thanh thản
tâm hồn, một chàng sinh viên khẽ bước vào ngôi nhà
thờ cổ ở thủ đô ánh sáng Paris. Từ cuối nhà thờ, anh nhìn thấy một bóng người xa xa đang quỳ gối
thinh lặng cầu nguyện hết sức sốt sắng.
Bỗng dưng anh chọn đứng nơi góc nhà thờ
dõi theo hình dáng và cử chỉ của người này. Chập
hồi lâu, khi người ấy đứng lên rời khỏi
giáo đường, thì chàng sinh viên trẻ này liền nhận
ra đó chính là nhà vật lý học vĩ đại An-rê
Ma-ri-e Am-pe [André-Marie Ampère] (1775-1836). Vì tâm trí ứa đầy
chất vấn và thắc mắc, anh lẽo đẽo
bước theo nhà bác học đến tận phòng làm việc
của ông. Nhìn thấy chàng sinh viên đứng trước
cửa phòng với dáng vẻ rụt rè, Am-pe liền lên tiếng:
– Anh đang cần
gì ư? Tôi có thể giúp anh giải một bài toán vật lý chăng?
Chàng sinh viên nhỏ
nhẹ đáp:
– Thưa ông, tôi là sinh viên khoa văn
chương, tôi dốt khoản
khoa học lắm. Xin ông cho tôi hỏi một vài vấn
đề liên quan đến đức tin được
không ạ?
Nhà bác học mỉm
cười khiêm tốn nói:
– Đức tin
là môn tôi yếu nhất; nhưng nếu giúp anh được
gì, tôi sẵn sàng!
– Thưa ông, có thể
vừa là nhà bác học vĩ đại, vừa là tín hữu
nhiệt thành cầu nguyện không?
Am-pe ngỡ
ngàng trước câu hỏi của anh,
nhưng cũng gượng gạo trả lời:
– Anh ơi! Chúng
ta chỉ vĩ đại khi chúng ta cầu nguyện thôi!
Thật ra, Am-pe trích dẫn câu nói của nhà
toán học, hoá học và triết gia thời danh người
Pháp Bờ-lei-zơ Pas-kal [Blaise Pascal] (1623-1662): ‘Con người
vĩ đại khi họ cầu nguyện’. Đúng vậy,
Chúa Giê-su vượt hơn hẳn điều đó. Ngài
chính là hình mẫu của đời sống cầu nguyện
liên lỉ, cầu nguyện không ngừng: “Sáng sớm,
lúc trời còn tối mịt, Ngài đã dậy, đi ra một
nơi hoang vắng và cầu nguyện ở đó” (Mc 1,
35). Ngài khởi đầu cũng như kết thúc một
ngày sinh hoạt với hành động “tìm nơi thanh vắng
và cầu nguyện ở đó”. Tuy là Con Thiên Chúa, nhưng
trong mọi việc, mọi suy nghĩ, mọi hoạch
định, v.v…, Đức Giê-su hằng kết hiệp mật
thiết với Chúa Cha qua đời sống cầu nguyện.
Trên thực tế, quả là sai lầm và
đáng buồn khi cầu nguyện bị giản lược
thành việc đọc kinh hoặc chỉ tóm gọn với
vô vàn lời cầu; và vì thế không ít người trong
chúng ta cảm thấy nặng nề khi cầu nguyện vì
phải học thuộc cả hệ thống kinh kệ,
cũng như đọc đi đọc lại bấy
nhiêu kinh mỗi ngày! Lắm lúc, với thời đại
5G, 6G, cứ lướt mạng tìm thì ‘kinh có mà đầy!’
Tuy nhiên, đây chưa hẳn là cầu nguyện như Chúa
Giê-su đã làm gương cho chúng ta. Ngài cầu nguyện
nơi thanh vắng, tĩnh lặng. Ngài chuyện trò, tâm sự
với Chúa Cha. Ngài hàn thuyên với Chúa Cha ‘từ con tim đến
con tim’. Ngài gắn kết với Chúa Cha. Ngài dùng từ ngữ
của mình, ‘ngôn ngữ tâm hồn’ bộc bạch cùng Chúa
Cha. Hơn nữa, đời sống cầu nguyện thâm
sâu, kín múc từ cung lòng yêu thương, bao dung của Thiên
Chúa sẽ thánh hoá, biến đổi con người chúng
ta, thúc giục, nâng đỡ chúng ta thực thi Lời Hằng
Sống (sống Lời Chúa), và dám ra khỏi ‘chốn tiện
nghi’ của bản thân mà đến với anh chị em,
ngõ hầu yêu thương, tha thứ, phục vụ, rao
truyền, làm chứng như Chúa mời gọi các môn đệ:
“Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng xã chung quanh
để Thầy còn rao giảng ở đó nữa, vì Thầy
ra đi cốt để làm việc đó” (Mc 1, 38).
Noi gương sống chứng tá của
Đức Giê-su, Thánh Phao-lô khẳng khái nói rằng: “Thật
vậy, đối với tôi, rao giảng Tin Mừng không
phải là lí do để tự hào, mà đó là một sự
cần thiết bắt buộc tôi phải làm. Khốn thân
tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng!” (1Cr 9, 16) Đời
sống cầu nguyện thật sự tăng sức mạnh
phục vụ, mang lại nhiệt huyết rao truyền
Tin Mừng qua đời sống đạo hằng ngày,
đưa chúng ta đến với mọi người,
giúp chúng ta ra khỏi não trạng phân biệt đối xử-thành
kiến-định kiến-cục bộ. Đâu đó,
chúng ta đã nghe biết, chứng kiến rất nhiều
gương phục vụ, rao truyền bằng đời
sống đạo mà nó được xây dựng trên đời
sống cầu nguyện thâm sâu. Một trong vô vàn chứng
tá sống động ấy không ai khác hơn là bác sĩ
truyền giáo Al-bớt Sờ-vai-zờ [Albert Schweitzer]
(1875-1965). Ông được nhận giải thưởng
Nobel Hòa bình Thế giới 1952 vì đã hy sinh trọn đời
mình cho người nghèo Phi Châu. Khi
chứng kiến cử chỉ của ông, một người
trong ban tổ chức đón tiếp ông nói với các ký giả: ‘Đây là lần đầu tiên tôi thấy một bài
giảng biết đi…’. Nói cách khác, ông là nhân chứng sống
đạo tuyệt vời qua việc cầu nguyện-phục
vụ.
Cuộc đời đầy những lo toan
Gạo tiền cơm áo, băn khoăn nỗi
niềm.
Xin cho con biết cậy tin
Tịnh tâm, tĩnh lặng sống tình mến
thương
Hiệp thông, liên đới, tựa
nương
Nguyện cầu với Chúa, lên đường
sẻ chia. Amen!
Lm. Xuân Hy Vọng
|