HIỆP SỐNG TIN MỪNG
CHÚA NHẬT 4 THƯỜNG NIÊN C
Gr 1,4-5.17-19 ; 1 Cr 12,31-13,13 ; Lc
4,21-30
THI HÀNH SỨ VỤ NGÔN SỨ CHO CHÚA
I. HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG : Lc 4,21-30
(21) Đức Giê-su bắt đầu nói với
họ : “Hôm nay đã ứng nghiệm lời
Kinh thánh quý vị vừa nghe”. (22) Mọi người
đều tán thành và thán phục những
lời hay ý đẹp thốt ra từ miệng
Người. Họ bảo nhau : “Ông này không phài
là con ông Giu-se đó sao ?”.(23) Người bảo
với họ : “Hẳn là các ông muốn nói
với tôi câu tục ngữ : Thầy lang ơi, hãy
chữa lấy mình ! Tất cả những gì
chúng tôi nghe nói ông đã làm tại Ca-phác-na-um,
ông cũng hãy làm tại đây, tại quê ông xem nào
! (24) Người nói tiếp : “Tôi bảo thật
các ông : Không một ngôn sứ nào được
chấp nhận tại quê hương mình”. (25) “Thật
vậy, tôi nói cho các ông hay : thiếu gì bà
góa ở trong nước Ít-ra-en vào thời
ông Ê-li-a, khi trời hạn hán suốt ba năm sáu
tháng, cả nước phải đói kém
dữ dội. (26) Thế mà ông không được
sai đến giúp một bà nào cả. Nhưng
chỉ được sai đến giúp bà góa
thành Xa-rép-ta miền Xi-đon. (27) Cũng vậy,
thiếu gì người phong hủi ở trong nước
Ít-ra-en vào thời ngôn sứ Ê-li-sa. Nhưng
không người nào được sạch, mà
chỉ có ông Na-a-man, người xứ Xy-ri-a
thôi”. (28) Nghe vậy, mọi người trong hội
đường đầy phẫn nộ. (29) Họ
đứng dậy, lôi Người ra khỏi thành
(thành này được xây trên núi). Họ
kéo Người lên tận đỉnh núi,
để xô Người xuống vực. (30) Nhưng
Người băng qua giữa họ mà đi.
2. Ý CHÍNH : ĐỨC GIÊ-SU BỊ
NGƯỜI ĐỒNG HƯƠNG BÁCH HẠI.
Tin mừng hôm nay cho thấy Đức Giê-su
đã bị người đồng hương
Na-da-rét không tin và bách hại : vì họ đã không được Người
làm phép lạ để chứng minh vai trò
Thiên Sai của Người trong khi Người lại
đòi họ phải có đức tin như
điều kiện để Người làm phép
lạ. Người trưng dẫn hai nhân
vật thời xưa là bà góa nghèo ở
Sa-rép-ta thời Ê-li-a và quan Na-a-man ở
Sy-ri-a thời Ê-li-sa đã nhận được
phép lạ nhờ đức tin. Do không
được thỏa mãn yêu cầu,
nên dân
Na-da-rét đã biến từ
thái độ thán phục ban đầu sang tức giận muốn giết hại Người.
3. CHÚ THÍCH :
- C 21-22 : + “Hôm nay đã ứng
nghiệm lời Kinh thánh quý vị vừa
nghe” : Đức Giê-su trình bày sự xuất
hiện của Người như khai mở thời
kỳ hồng ân mà các ngôn sứ đã loan
báo, nhưng hồng ân cứu độ ấy không
dành riêng cho dân Ít-ra-en mà cho mọi dân tộc.
Tin mừng Lu-ca thường nhấn mạnh đến
tính cách hiện tại của ơn cứu
độ bằng từ “hôm nay” (x. Lc 2,11). + “Ông
này không phải là con ông Giu-se đó sao ?” : Khi
ra giảng đạo Đức Giê-su được
30 tuổi và thiên hạ vẫn cho rằng Người
là con của ông Giu-se (x. Lc
3,23).
- C 23-24 : + “Thầy lang ơi, hãy chữa
lấy chính mình !” : Đức Giê-su đã
dùng câu tục ngữ này để diễn tả
ý muốn của các người đồng hương
Na-da-rét, đòi Người phải làm phép
lạ để ưu tiên phục vụ đồng hương,
giống như Người đã từng
làm ở các nơi. + Ca-phác-na-um : là một thành phố nằm về hướng Tây Bắc
biển hồ Ga-li-lê, và là trung tâm hoạt động
của Đức Giê-su. Tại đây, Đức
Giê-su đã chữa lành nhiều bệnh nhân và
thực thi nhiều phép lạ (x. Mc 1,21-28)
: tha tội trước khi chữa người
bại liệt (x. Mc 2,1-12), quan tâm đến người
tội lỗi (x. Mc 2,15-17), khoan dung trong việc giữ
luật ăn chay và hưu lễ (x. Mc 2,18-27). + “Ông
cũng hãy làm tại đây, tại quê hương
ông xem nào !” : Dân làng Na-da-rét
muốn thử thách Người giống như
Xa-tan đã làm. Họ muốn lợi dụng
Đức Giê-su để phục vụ cho ích lợi
của họ (x. Lc 4,1-14). Cũng vì tưởng
đã thấu hiểu nguồn gốc của Đức
Giê-su, nên họ không tin Người là Con Thiên Chúa
từ trời mà đến. Họ đòi
Người phải làm phép lạ để chứng
minh sứ mệnh Thiên Sai của Người (x. Lc
11,16). + “Không một Ngôn sứ nào
được chấp nhận tại quê hương
mình” : Ngôn sứ hay tiên tri là
phát ngôn viên của Thiên Chúa để an ủi những
người đau khổ tuyệt vọng, tiên báo
tương lai tốt đẹp sắp dến và
động viên dân Do thái trung thành với đức
tin vào Thiên Chúa (x. Is 49,8-15); Cáo trách tội
của các vua quan và dân chúng như ngôn sứ
Sa-mu-en đã trách phạt vua Sa-un (x. 1 V 15,12-23), Ngôn
sứ Na-than đã cáo trách tội “giết
chồng đoạt vợ” của vua Đa-vít (x.
2 Sam 12,1-15), Ngôn sứ Giê-rê-mi-a trách phạt dân chúng tội tôn thờ tà
thần (x. Gr 7,30-34)... Chính do “Trung ngôn nghịch nhĩ”
và “Lời thật mất lòng” mà nhiều
vị ngôn sứ đã bị người đương
thời thù ghét và giết hại (x. Lc 6,23b). Câu “Không một ngôn sứ nào được
tiếp nhận tại quê hương mình” tương
tự câu “Bụt nhà không thiêng” của người
Việt chúng ta.
- C 25-27 : + Tôi nói cho các ông hay
: Đức Giê-su muốn trình bày tính phổ
quát của ơn cứu độ, nghĩa là
ơn ấy được dành cho mọi dân mọi
nước, chứ không dành riêng cho dân Ít-ra-en
hay cho dân làng Na-da-rét. Trong thời gian giảng
đạo, Đức Giê-su cũng thường
đề cao đức tin của dân ngọai như : khen viên đại đội trưởng
người Rô-ma (x. Lc 7,9) ; Dạy môn đệ noi gương
bác ái của người Sa-ma-ri (x. Lc 10,36-37) ;
Khen người đàn bà xứ Ca-na-an (x.
Mt 15,28). + Ê-li-a và bà góa ngoại giáo thành
Xa-rép-ta vượt qua cơn đói kém
: Ê-li-a là một ngôn sứ rất nổi tiếng,
sống vào thế kỷ thứ chín trước
công nguyên. Một bà góa ở thành Xa-rép-ta
miền Xi-đon sắp bị chết đói do trời
hạn hán mất mùa. Nhờ tin và làm
theo lời Ê-li-a dạy mà bà này đã
được hưởng phép lạ làm
cho hũ bột và bình dầu nhà bà đầy mãi cho tới khi hết
nạn hạn hán (x. 1 V 18,1tt). + Ê-li-sa
và quan Na-a-man ngoại giáo bị phong cùi : Ngôn sứ
Ê-li-sa là đồ đệ của ngôn sứ
Ê-li-a, rất nổi tiếng vì có khả năng
chữa bệnh cách lạ thường.
Tại xứ Xy-ri-a có viên sĩ quan tên là
Na-a-man bị mắc bệnh phong cùi. Nhờ làm
theo lời một nữ tì người Ít-ra-en mách
bảo, ông đã sang nước Ít-ra-en tìm
đến xin ngôn sứ Ê-li-sa chữa bệnh. Nhờ
tin vào quyền năng của Thiên Chúa và khiêm tốn
vâng lời dạy xuống sông Gio-đan tắm 7 lần
nên ông đã được phép lạ khỏi
bệnh (x. 2 V 5,1-14).
- C 28-30 : + Mọi người trong hội
đường đầy phẫn nộ : Họ
phẫn nộ vì Đức Giê-su đã không thỏa
mãn yêu cầu được xem Người làm phép
lạ. Họ còn tức giận vì Người
đã đề cao dân ngoại hơn dân Do thái là
dân ưu tuyển của Đức Chúa. Họ ganh
tị vì Người coi trọng thành Ca-phác-na-um
ngoại giáo, hơn quê nhà Na-da-rét của Người.
Sự kiện này tiên báo Người sẽ
bị người ta chống đối, mà ông
Si-mê-on đã tiên báo (x. Lc 2,34). Cuối cùng Người
còn bị kết án chịu chết trên cây thập
giá nữa (x. Lc 20,15). + Nhưng Người
băng qua giữa họ mà đi : Trước
sự chống đối của dân làng Na-da-rét,
Đức Giê-su đã vượt qua giữa
họ mà đi trên đường của Người,
là đường kết thúc tại thành
Giê-ru-sa-lem (x. Lc 13,33).
4. CÂU HỎI :
1) Tin mừng Lu-ca cho biết khi ra giảng đạo
Đức Giê-su được bao nhiêu tuổi và
người đời nghĩ Người là
con của ai ? 2) Ngôn sứ và tiên tri giống hay khác
nhau và có sứ vụ gì ? 3) Tại sao dân
làng Na-da-rét đòi Đức Giê-su làm
phép lạ cho họ xem và họ đã phản ứng
thế nào khi không được thỏa mãn ? 4) Hãy
kể ra một số trường hợp Đức
Giê-su coi trọng dân ngọai hơn dân Do thái ? 5) Khi nêu
ra hai phép lạ do ngôn sứ Ê-li-a và Ê-li-sa
đã làm cho hai người đàn bà
thuộc dân ngoại, Đức Giê-su muốn dạy
điều gì với người đồng hương
Na-da-rét ? 6) Tại sao dân làng Na-da-rét nổi giận
muốn giết chết Đức Giê-su ?
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA : “Hôm nay đã ứng
nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe” (Lc 4,21).
2. CÂU CHUYỆN :
1) NA-THAN SỬA LỖI VUA ĐA-VÍT CÁCH
KHÔN NGOAN (x. 2 Sm 12,1-13) :
Sau khi vua Đa-vít phạm tội ngoại tình với nàng
Bát-se-va vợ của tướng U-ri-gia, và vua ngầm hạ
lệnh cho đại tướng Gio-áp mượn tay quân
địch ngoài mặt trận giết chết vị tướng
tài này, ngôn sứ Na-than đã được
Đức Chúa sai đến cáo trách tội ác ngoại
tình và “giết chồng đoạt vợ” của vua
Đa-vít. Ngôn sứ Na-than đã vào đền vua và
trình lên một câu chuyện hư cấu về một
nhà phú hộ có 10 ngàn con chiên, nhưng sai gia nhân đến
nhà anh nông dân nghèo chỉ có một con chiên cái duy nhất
mà anh rất mực thương yêu, rồi bắt con chiên
ấy về làm thịt để đãi bạn bè. Vua
Đa-vít sau khi nghe kể về hành động thất nhân
ác đức của tên phú hộ đã tỏ thái độ
tức giận với tên phú hộ. Bấy giờ
Na-than mới nói : “Tên phú hộ gian ác ấy chính là
đức vua. Vua đã phạm tội ngoại tình với
nàng Bát-se-va rồi còn giết chồng là tướng
U-ri-gia để đoạt vợ của ông ta”. Nhờ cách
cáo tội khôn ngoan này mà Vua Đa-vít đã nhận ra tội
lỗi to lớn của mình và đã hồi tâm sám hối.
2) HƯỚNG DẪN GIẢI PHÁP GIÚP MANG LẠI
HẠNH PHÚC :
Có một nhà hiền triết nọ chuyên làm cố
vấn giúp đỡ những ai buồn phiền
chán nản. Bất cứ ai đến xin cũng đều
được nhà hiền triết cho lời
khuyên hữu ích.
Một hôm, một người chủ xưởng
may đến xin nhà hiền triết giúp giải
quyết khó khăn gặp phải trong gia đình.
Gia đình ông gồm 9 người : hai vợ chồng
và 7 đứa con trai nhỏ. Họ sống chen
chúc nhau trong một căn chòi nóng bức chật
chội. Do không có chỗ chơi nên lũ trẻ rủ
nhau vào vui đùa trong xưởng may tương
đối rộng rãi. Bà mẹ luôn miệng la hét
lũ trẻ để giữ trật tự. Còn
ông chủ phần lo sản xuất quần áo, phần bị lũ con la hét
quậy phá nên tâm trí không lúc nào được
thanh thản.
Nghe hoàn cảnh của gia đình ông chủ xưởng
may, nhà hiền triết liền cho lời khuyên như
sau :
- Ông hãy ra chợ mua một con dê đực và
mang về cột nó trong xưởng may để lũ
trẻ hết chỗ quậy phá.
Tuy không hiểu hết lý do, nhưng ông chủ xưởng
may vốn tin vào khả năng của nhà hiền triết,
nên vâng lời ra chợ mua về một con dê đực
và cột nó vào góc xưởng may khiến
lũ trẻ không còn chỗ vui chơi quậy phá.
Nhưng bây giờ lại đến lượt con
dê đực quậy. Không những nó phóng uế bừa
bãi bốc mùi hôi thối trong xưởng may,
mà miệng nó không ngừng kêu “be be”… khiến
ai nấy đều rất khó chịu !
Mấy hôm sau, ông chủ xưởng may lại đến
than phiền về sự quậy phá của con dê với
nhà hiền triết và lần này ông lại cho lời
khuyên :
- Ông hãy về nhà và mau mang con dê ra chợ bán
đi.
Nghe vậy, ông chủ xưởng may cảm thấy
vui như vừa được giải thoát
khỏi gánh nặng. Ông vội về dắt con dê
ra chợ bán, đang lúc bà vợ cùng
gia nhân làm tổng vệ sinh để tẩy uế
nhà xưởng. Bảy đứa nhóc sau khi thấy
xưởng may sạch sẽ, lại rủ nhau vào
trong xưởng vui đùa la hét như trước.
Có điều bây giờ tiếng la hét của
chúng không còn làm ông bố khó chịu. Ông tự
nhủ : dù sao, tiếng la hét của lũ trẻ cũng
dễ chịu hơn nhiều so với tiếng kêu của
con vật dơ bẩn đáng ghét kia … Và từ
ngày đó gia đình ông chủ xưởng
may lại được yên vui hạnh phúc như
trước.
3) CAN ĐẢM NÓI LỜI TRUNG NGHĨA TRƯỚC
KẺ THỦ ÁC :
Thôi Trữ là một quyền thần nước
Tề, định giết vua Trang Công để đoạt
ngôi báu. Ông ta cho mời các quan chức triều
đình đến tư dinh để bàn mưu tính
kế và uống máu ăn thề. Sau khi nghe Thôi Trữ
công khai tuyên bố chống lại nhà vua, các quan chức
triều đình có mặt đều tỏ ra
khiếp sợ trước uy thế của Thôi Trữ
và răm rắp nghe theo. Duy chỉ có Án Tử
là vẫn điềm nhiên tự tại và không
mở miệng thề hứa chi cả. Bấy giờ
Thôi Trữ bảo Án Tử rằng : “Nếu
ngươi theo ta, thì sau khi ta thâu đoạt được
ngai vàng, ta sẽ chia một nửa nước
cho. Còn nếu không nghe ta thì ngươi sẽ lập
tức bị giết !”. Trước khí thế
của quân phản loạn, Án Tử vẫn giữ
bình tĩnh. Ông trả lời : “Lấy cái lợi
để nhử và bắt người ta
chống lại Quân vương là bất trung. Lấy
binh khí để hiếp đáp làm cho lòng
người sợ hãi phải nghe theo mình
là thất đức. Giết thì giết! Ta
đây quyết không làm theo việc bất trung thất
đức của ngươi đâu!”. Nói xong Án
Tử đứng dậy ung dung ra về, thế mà
Thôi Trữ cũng không dám ra lệnh cho quân lính
ngăn lại và giết hại như đã đe trước
đó.
Câu chuyện trên cho thấy những lời nói
đúng đắn cũng có sức mạnh
chống lại được những kẻ gian
ác. Những lời đó mang tính tiên
tri mà mỗi tín hữu chúng ta đều
có thể thực hiện được trong
cuộc sống hằng ngày,
3. THẢO LUẬN :
Trên đường rao giảng
Tin Mừng, Đức Giê-su đã luôn ưu ái
và đề cao dân ngoại hơn dân Do Thái. Vậy
chúng ta nên đối xử thế nào với
anh em lương dân để giới thiệu Chúa
cho họ ?
4. SUY NIỆM :
Khi muốn dạy dân Chúa
điều gì, Đức Chúa không trực tiếp hiện
ra dạy dỗ, nhưng dùng các tổ phụ hay các ngôn sứ
để tuyên sấm thay Ngài. Ngôn sứ phải được
Thiên Chúa chọn và phải nói tất cả những lời
Đức Chúa muốn ông nói. Những lời ngôn sứ nói
ra thường không dễ nghe và khó được người
nghe đón nhận, vì đã vạch trần những sai trái
của họ, nhất là khi họ là nhà lãnh đạo dân
chúng trong đạo ngoài đời.
1. Đức Giê-su thi hành sứ vụ ngôn
sứ và bị đồng hương chống đối
:
Tin Mừng CN hôm nay thuật lại : Trong Hội đường
Na-da-rét, sau khi đọc đoạn sách của Ngôn sứ
I-sai-a về sứ vụ Đấng Thiên Sai, Đức Giê-su
tuyên bố : “Hôm nay đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh
mà quý vị vừa nghe” (Lc 4,21). Lúc đầu dân làng
Na-da-rét thán phục về tài ăn nói khôn ngoan lưu loát
của Đức Giê-su, nhưng rồi do thành kiến về
nghề thợ mộc thấp hèn và gia cảnh tầm
thường của Người, nên họ không tin Người
là Đấng Thiên Sai. Họ đòi Đức Giê-su phải
chứng minh vai trò Thiên Sai bằng các phép lạ
như Người đã làm tại thành Ca-phác-na-um. Nhưng
Đức Giê-su đã không làm phép lạ nào tại
đây vì họ không tin. Sở dĩ dân ngoại đã
được hưởng phép lạ, vì họ đã tin
Đức Giê-su là Đấng Thiên Sai. Rồi Người
kết luận :“Không một ngôn sứ nào được
chấp nhận tại quê hương mình”. Nghe vậy, mọi
người trong hội đường đầy phẫn
nộ vì họ nghĩ Đức Giê-su đã coi trọng dân
ngoại hơn dân Do thái, và đã xem thường người
đồng hương. Họ hè nhau lôi Người lên triền
núi để xô Người xuống vực, nhưng “người
đã băng qua giữa họ mà đi” (Lc 4,30).
2. Thi hành sứ vụ ngôn sứ hôm nay : Mỗi
tín hữu chúng ta nhờ chịu phép rửa tội và thêm sức
nên đã được tham phần vào sứ vụ ngôn sứ
của Đức Giê-su. Để chu toàn sứ vụ ngôn
sứ cao quý này, chúng ta cần tránh và cần làm những gì
?
-Cần tránh thành kiến với tha nhân : Dân làng Na-da-rét do có thành kiến về nghề nghiệp
và gia cảnh của Đức Giê-su, nên đã không tin vào sứ
vụ Thiên Sai của Người. Thành kiến là một
thói xấu mà ai trong chúng ta ít nhiều cũng mắc phải
: Cùng một lời nói hay việc làm do một người
có địa vị cao hay uy tín lớn nói thì được
mọi người coi trọng, đang khi nếu lời
nói hay việc làm đó lại do một người
bình dân làm thì sẽ bị mọi người coi thường
và không chấp nhận.
-Cần tránh thái độ ích kỷ cục bộ : Qua câu chuyện hũ bột tại nhà bà góa nghèo thời
ngôn sứ Ê-li-a không bị cạn, và bệnh cùi của viên
quan ngoại giáo Na-a-man thời ngôn sứ Ê-li-sa được
khỏi bệnh cách lạ thường, Đức Giê-su
cho thấy mọi dân tộc đều được
Chúa ban ơn cứu độ chứ không chỉ riêng
dân Do thái, miễn là họ phải có lòng tin, thể hiện
qua việc thực hành Lời Chúa. Đức Giê-su muốn
chúng ta hôm nay không đóng khung các họat động tông
đồ hay việc chia sẻ bác ái trong phạm vi hạn
hẹp, mà phải mở rộng tình thương đến
hết mọi người.
-Cần nói Lời Chúa cách trung thực : Làm ngôn sứ không dễ, vì phải nói Lời Chúa cách
chính xác, dù sự thật thường mất lòng. Nhưng
đã là ngôn sứ thì chúng ta phải trung thành nói lời Chúa
và sẵn sàng đón nhận hậu quả có thể bị
kẻ ác thù ghét bách hại.
-Cần dũng cảm bênh vực công lý : Làm ngôn sứ đôi khi cũng phải lội ngược
dòng. Chúng ta cần tránh ngả theo dư luận xấu,
cũng không hùa theo số đông lầm lạc, mà
phải biết ứng xử khôn ngoan theo lời Chúa dạy.
Điều này đòi chúng ta phải dũng cảm đứng
về phía sự thật và khôn ngoan để giữ hòa
khí với mọi người. Chính thái độ can đảm
và khôn ngoan dám bênh vực công lý này sẽ giúp người
đời nhận biết tôn thờ Thiên Chúa như Lời
Chúa phán : “Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước
mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc
tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng
ngự trên trời” (Mt 5,16).
3. Thi hành sứ vụ Ngôn Sứ
trong việc sửa lỗi anh em :
Mỗi Kitô hữu, qua Bí Tích
Rửa Tội và Thêm Sức, cũng là ngôn sứ của Chúa,
vì đó là một trong ba chức năng của Đức
Kitô mà mọi tín hữu được tham phần. Nhiệm
vụ ấy đòi mỗi tín hữu phải can đảm
thi hành triệt để trong cuộc sống hằng ngày,
bằng chứng tá sống động, mặc dầu có thể
bị chối bỏ hay chống đối.
- Sứ vụ ngôn sứ không dễ thực
hiện : Để nói Lời
Chúa cách hữu hiệu với người
có lỗi để họ sẵn sàng đón nhận và
sửa đổi, chúng ta cần làm việc đó cách
khôn ngoan, như ngôn sứ Na-than đã làm khi sửa
lỗi cho vua Đa-vít (x. 2 Sm 12,1-13).
- Cần sửa lỗi tha nhân thế nào?
: Để việc sửa lỗi
đạt kết quả, chúng ta nên theo thứ tự như
sau :
+ Nhờ ơn Chúa giúp như
Lời Chúa dạy : “Vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì
được” (Ga 15,8).
+ Cần tạo uy tín : Phải biết
tự sửa mình trước khi sửa lỗi tha
nhân, để tránh tình trạng : “Chân mình những lấm bê
bê, lại cầm bó đuốc mà rê chân người”.
+ Cần sửa lỗi do tình bác ái thôi
thúc chứ không do sự ganh ghét đố kỵ.
+ Cần áp dụng phương pháp “viên thuốc
bọc đường” : “khen trước chê sau”, “khen nhiều
chê ít”.
+ Cần sửa lỗi theo bốn bước
theo Lời Chúa dạy như sau : Một là gặp riêng kẻ
có lỗi; Hai là mang theo một hoặc hai nhân chứng; Ba là
đưa kẻ có lỗi ra cộng đoàn; Bốn là coi kẻ
cố chấp như dân ngoại và phó thác họ cho lòng thương
xót của Thiên Chúa (x. Mt 18,15-17).
5. LỜI CẦU :
Lạy Chúa Giê-su. Xin giúp chúng con chu tòan sứ vụ Ngôn Sứ
là rao giảng Tin Mừng trong xã hội hôm nay. Xin cho chúng con
chuyên cần học sống Lời Chúa tại nhà thờ.
Đọc câu Lời Chúa trong giờ kinh tối gia đình
hằng ngày. Xin cho chúng con biết làm chứng cho “Sự Thật”
(x Ga 14,6), và tin vào sức mạnh của sự thật, như
Chúa đã dạy : “Sự thật sẽ giải phóng các
ông” (Ga 8,32).
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN
CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON
LM ĐAN VINH - HHTM
|