Bài 37. LỄ VU LAN
(Tìm
hiểu một lễ hội của dân chúng qua Bài của Lữ
Khách, đăng trong tạp chí “Kiến Thức Ngày Nay”, số
864, 10-08-2014, tr.33tt, với nhan đề : Kể chuyện
Rằm tháng bảy)
GỐC
TÍCH
Bắt nguồn từ kinh
Ulanbana (Vu Lan Bồn) của đạo Phật. Mục Kiền
Liên là một trong 10 đại đệ tử của Phật
tổ… và có pháp lực cao thâm. Mẹ ông là người
đàn bà độc ác, nên sau khi chết đã sa xuống Ngọa
quỉ địa ngục, quanh năm đói khát. Ông đã
sử dụng thần thông xuống địa ngục
đưa cơm đến thăm mẹ. Mẹ ông khi
ăn đã dùng một tay che bát cơm của mình để
tránh không cho các cô hồn khác dòm ngó. Vì lòng tham chưa dứt,
nên khi đưa cơm lên miệng, thức ăn đã hóa
thành lửa đỏ (xem hình).
Mục Kiền Liên về kể lại
với Phật, Phật cho rằng dù pháp thuật cao siêu
đến mấy, cũng không thắng được
“nghiệp”. Phật đã giảng kinh Ulanbana, hướng dẫn M.K.Liên vào ngày
rầm tháng 7, dùng cơm chay bố thí tăng ni thập
phương, quảng bá công đức, mới giải
được nghiệp. Làm theo lời Phật dạy, mẹ
MKLiên đã được giải thoát khỏi địa
ngục. Phật cũng nhân dịp dạy rằng chúng sinh
ai muốn báo hiếu cho cha mẹ, cũng theo cách này (Vu Lan
Bồn Pháp). Từ đó ngày lễ Vu Lan trở thành một
trong những ngày lễ chính của Phật giáo.
[Bỏ một đoạn ngoài đề….]
Năm 1970, khi nhà
Phật học nổi tiếng của Đài Loan, pháp
sư Thích Thiên Dân đến Nhật Bản thuyết pháp từng
bị chất vấn: “Phật giáo chú trọng nhân quả,
người chết phải luân hồi theo nghiệp mình
gây ra (xem hình: sống tốt được tái sinh vào
nơi cao quí, sống ác đức, vào làm súc sinh). Cứ
đến rằm tháng 7, các thiện nam tín nữ thi nhau
đốt vàng mã, nhà chùa cũng tụng kinh cầu siêu cho
vong hồn, như vậy là chẳng cần tu hành theo lời
Phật dạy cũng thoát được kiếp luân hồi,
điều đó có hiệu nghiệm không?” Ông thản nhiên
trả lời : “Làm như vậy nhằm hai mục
đích, an ủi người sống và tăng thu nhập
cho nhà chùa!” Trả lời của pháp sư phản ánh (giữa)
tín ngưỡng thế tục (dân gian) và Phật giáo chánh
tín (chính thống) có nhiều sự khác biệt .
Đối với chúng ta chỉ cần không hổ với
người đã khuất, sao cho thanh thản cõi lòng, chuyện
khác cũng chẳng cần bận tâm.
DIỄN
TIỀN CỦA NGÀY RẰM THÁNG 7
Từ ngày 1.7 âm lịch, Diêm vương
ra lệnh mở cửa địa ngục, các cô hồn dã
quỉ quanh năm bị cấm cố được “nghỉ
phép năm”, lảng vảng trần gian, hưởng đồ
cúng tế, đến 29.7 phải về “trả phép”. [….]
Chúng
ta đều biết, mỗi năm có ba ngày rằm quan trọng
nhất, gọi là Thượng nguyên, Trung nguyên và Hạ
nguyên, (15.1 ; 15.7; 15.10 âm lịch).
Theo Đạo giáo Trung hoa, để quản trị trần
gian, Ngọc Hoàng đã bổ nhiệm ba vị đại
diện của mình dưới trần, gọi là tam quan :
Thiên quan, Địa quan, Thủy quan, lấy ba ngày trên làm
ngày vía, hằng năm phải gửi bản tường
trình lên Thiên đình để Ngọc Hoàng định
đoạt họa phước. 15.7 chính là ngày Địa
quan lấy ra cuốn danh sách dày cộm, giảm bớt hình
phạt cho các oan hồn. Diêm vương chỉ việc theo phán
quyết thi hành án. Do đó rằm tháng 7 còn được gọi là ngày “Xá tội vong nhân”
(tha tội cho người đã chết). Ở ta, Phật giáo, Đạo
giáo và tín ngưỡng dân gian đã hòa quyện với nhau
thành một. Tôi thầm nghĩ, chắc ông Địa quan
phải có siêu máy tính mới xử lý được hàng tỷ
hồ sơ mà không gây bất kỳ sai sót nào, vì chẳng thấy
oan hồn nào khiếu nại lên Thiên đình.
Rằm
thánh 7…. hoạt động chủ yếu là cúng cô hồn
(miền Bắc là “cúng chúng sinh”). Người miền Nam
cúng vào bất kỳ ngày nào trong tháng 7, người miền
Bắc thì cúng đúng vào ngày rằm, còn các phong tục khác
đa phần đều giống nhau…
Nơi
cúng phải đặt ở hành lang hoặc vỉa hè, tuyệt
đối không được cúng trong nhà, nếu không sẽ
có nguy cơ rước ma vô nhà.
Đồ cúng phải có : cháo trắng,
bánh tráng nướng, mía cắt
khúc ngắn để nguyên vỏ,
đậu phụng luộc, bánh kẹo, vài cục
đường thẻ, gạo trộn lẫn muối, giấy
vàng….Miền Bắc còn có thêm bánh trôi, bánh chay, khoai sọ và ốc
nhồi, tượng trưng cho đầu và sọ quỉ.
(xem hình).
Đồ
cúng không được ăn và cũng không được mang vào nhà, hóa vàng xong, phải
để đám “cô hồn sống” đến giật mới đúng ý
nghĩa cúng cô hồn.
Theo ý
nghĩ của nhiều người: Cúng cô hồn không hẳn
là mê tín, mà là một hành động bố thí, từ bi bác
ái, siêu độ chúng sanh, mang đậm
nét nhân văn của dân tộc ta.
***
TRÌNH
TỰ TƯ PHÁP DƯỚI ĐỊA PHỦ
Chẳng ai thoát khỏi cái chết, nếu
chúng ta chưa đủ tự tin có thể lọt qua cổng
thiên đường hoặc Tây du qua Thế giới Cực
lạc, thì đi chầu Diêm vương, chịu sự
phán xét theo một trình tự tư pháp tuy nghiêm khắc
nhưng khá chặt chẽ.
Đứng
đầu địa phủ là Diêm
vương, ông có quốc tịch Ấn Độ, theo
Phật giáo truyền vào Đông thổ, và nhập tịch
Trung Hoa. Diêm vương tên gọi đầy đủ là
Diêm La Vương, phiên âm từ tiếng Phạn, có
nghĩa là “bình đẳng”, khuôn vàng thước ngọc “mọi
người bình đẳng” đã được ghi vào
điều luật của địa phủ. Vì ông cầm
cân nảy mực, chấp pháp vô tư, nên được
thờ cúng khắp nơi, quyền uy hiển hách, chẳng
kém gì Phật tổ hoặc
Quan Thế Âm bồ Tát.
Từ ngày đến Trung Hoa, phải
cai quản cả tỷ hồn ma, một mình Diêm
vương lo không xuể, nên bộ máy hành chánh ngày một
phình to ra, đến nay đã
thành lập được 10 văn phòng độc lập,
gọi “thập điện
Diêm vương”. Đáng lẽ ra Diêm La vương đứng
đầu địa phủ, nhưng vì ông ta hay mủi
lòng, giải thoát cho nhiều oan hồn, nên đã bị Ngọc
hoàng giáng xuống làm Chưởng quản Điện thứ
5.
Chức
năng cùng các Diêm vương 10 điện tóm lược
như sau :
Tần quảng vương. Người mới chết
được quỉ vô thường dẫn giải đến
Điện 1 gập phán quan lập hồ sơ như hồ
sơ nhập viện vậy. (xem hình). Điện 1 có “Nghiệt
kính đài”, hồn ma đứng trước đó, sẽ
tái hiện tội lỗi của mình trên dương thế
như những thước phim câm, không thể có oan sai, nên
không cần luật sư bào chữa. Diêm vương sẽ
căn cứ vào báo cáo của phán quan để lượng
hình (gia hình nặng nhẹ). Tùy tội nặng nhẹ sẽ
phải đi qua các Điện từ 2 đến 9, nếu
công tội tương đương, sẽ trực tiếp
đến điện thứ 10 chuyển kiếp.
Sở Giang vương. Chưởng quản Hàn băng
địa ngục, những người hung ác, giết
người cướp của, phải xuống nơi
đây chịu hình phạt quanh năm băng giá, chặt
đầu khoét mắt, thân thể bị nghiền nát.
Tống đế vương. Chưởng quản Hắc thằng
địa ngục, những kẻ tà dâm bất hiếu phải
xuống địa ngục này chịu hình phạt chặt
người ra từng khúc.
V.v…
Đô
Thị vương. Chưởng
quản địa ngục A tỳ, là tận cùng của 18
tầng địa ngục, những kẻ phạm tội
đất không dung trời không tha phải ôm cột đồng
đỏ rực, cháy hết tim gan, mãi mãi không được
siêu thoát.
Chuyển Luân vương. Tiếp nhận hồn ma từ
các điện chuyển tới, quyết định cho họ
đầu thai chuyển kiếp làm người hoặc súc
sinh theo luật luân hồi quả báo. (xem hình trên trang 276).
Hàng tháng, Chuyển Luân vương phải nộp báo cáo lên
Điện 1 để xóa bỏ những hồ sơ
đã hoàn tất. Trước khi chuyển kiếp, phải
ăn cháo lú ở bến đò bà Mạnh cho quên hết
kiếp trước, rồi qua cầu Nại Hà (xem
hình dưới), ra khỏi biên giới cõi âm.
Mười điện kể
trên đều mang tước ngang nhau, chẳng lẽ không
có quan chức bao quát chung ? Năm 728, hòa thượng Kim Kiều
Giác, người nước Tân La (phía Nam bán đảo Triều
tiên, tức Hàn quốc bây giờ) tu hành đắc đạo
ở tuổi 99. Ngài chứng quả Bồ Tát, được
Phật Tổ cử làm giáo chủ U Minh, phong hiệu Địa Tạng vương,
thống lĩnh thập điện Diêm vương. Ngài
đã lập hoằng nguyện (lời nguyện vĩ
đại): “địa ngục bất không, bất thành
chánh quả ; chúng sanh độ tận, phương chứng
bồ đề”.
Tuy vậy,
ngài chỉ lo giáo hóa, siêu độ oan hồn, không can dự
vào quá trình xét xử, nhằm bảo đảm “tư pháp
độc lập”. Hàng tỷ tỷ chúng sanh, tội ác tày
trời bao giờ mới độ hết ?
Rằm
tháng 7 là dịp chúng ta tri ân đấng sinh thành, nghĩ
đến những người không ai cứu giúp, làm những
việc thiện, đó là ý nghĩa sâu xa chúng ta cần phải
kế thừa.
Những
người từng đổ bộ lên mặt trăng,
thăm dò trên sao Hỏa, vẫn vững tin ở Thượng
đế, nên đối với những điều ta
chưa kiểm chứng được, đừng vội
kết luận là “mê tín”.
ÓvÎ
|