HIỆP SỐNG TIN MỪNG
CHÚA NHẬT III MÙA CHAY B
Xh 20,1-17 ; 1 Cr 1,22-25 ; Ga 2,13-25
THANH LUYỆN TÂM HỒN NÊN ĐỀN THỜ ĐÍCH THỰC CỦA THIÊN CHÚA
I.HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG: Ga
2,13-25
(13) Gần đến lễ Vượt
Qua của người Do Thái, Đức Giê-su
lên thành Giê-ru-sa-lem, (14) Người thấy trong
Đền Thờ có những kẻ bán
chiên, bò, bồ câu, và những người
đang ngồi đổi tiền. (15) Người liền
lấy dây làm roi mà xua đuổi tất cả bọn
họ cùng với chiên bò ra khỏi Đền
Thờ. Còn tiền của những người
đổi bạc, Người đổ tung ra, và
lật nhào bàn ghế của họ. (16) Người
nói với những kẻ bán bồ câu:
“Đem tất cả những thứ này ra khỏi
đây, đừng biến nhà Cha Tôi thành nơi
buôn bán”. (17) Các môn đệ của Người
nhớ lại lời đã chép trong Kinh Thánh:
“Vì nhiệt tâm lo việc nhà Chúa, mà tôi
đây sẽ phải thiệt thân”. (18) Người Do
Thái hỏi Đức Giê-su: “Ông lấy dấu lạ
nào chứng tỏ cho chúng tôi thấy là ông
có quyền làm như thế?” (19) Đức
Giê-su đáp: “Các ông cứ phá hủy Đền
Thờ này đi, nội ba ngày, tôi sẽ xây dựng
lại” (20) Người Do Thái nói: “Đền
Thờ này phải mất bốn mươi sáu
năm mới xây xong, thế mà nội trong ba ngày
ông xây lại được sao?” (21) Nhưng Đền
Thờ Đức Giê-su muốn nói ở
đây là chính thân thể Người. (22) Vậy,
khi Người từ cõi chết trỗi dậy,
các môn đệ nhớ lại Người
đã nói điều đó. Họ tin vào
Kinh Thánh và lời Đức Giê-su đã
nói. (23) Trong lúc Đức Giê-su ở Giê-ru-sa-lem
vào dịp lễ Vượt Qua, có nhiều kẻ
tin vào danh Người bởi đã chứng
kiến các dấu lạ Người làm. (24)
Nhưng chính Đức Giê-su không tin họ, vì
Người biết họ hết thảy (25) và
không cần ai làm chứng về con người.
Quả thật, chính Người biết có gì
trong lòng con người.
2. Ý CHÍNH:
Với lòng nhiệt thành
yêu mến Thiên Chúa, Đức Giê-su không thể chấp
nhận được cảnh bát nháo diễn
ra nơi Đền Thờ của Chúa Cha. Người
đã biểu lộ uy quyền của Con Thiên Chúa
bằng việc dùng roi xua đuổi bọn con
buôn cùng với tiền bạc, chiên bò, chim câu
của họ... ra khỏi Đền Thờ. Người
tẩy uế Đền Thờ của Chúa Cha và
khẳng định rằng: Từ nay việc
thờ phượng đẹp lòng Thiên Chúa
sẽ phải được cử hành trong
Đền Thờ Mới là thân xác Phục
Sinh của Người và trong lòng các tín hữu, thay sự thờ phượng tạm thời trong Đền Thờ
Giê-ru-sa-lem bằng gỗ đá.
3. CHÚ THÍCH:
- C 13-15: + Lễ Vượt
Qua của dân Do Thái: Vào thời Đức
Giê-su, lễ Vượt Qua là một trong ba đại
lễ, buộc người Do Thái ở khắp
nơi phải hành hương về Đền thánh
Giê-ru-sa-lem để sát tế và ăn bữa
tiệc chiên Vượt Qua, kỷ niệm biến cố
Xuất Hành, trong đó Đức Chúa
đã dùng Mô-sê giải phóng con cháu Gia-cóp
là dân Do Thái khỏi ách nô lệ cho dân Ai Cập.
+ Đền Thờ: Đền Thờ là
dấu chỉ Đức Chúa hiện diện giữa
dân Người. Không kể Đền thờ tạm
là Nhà Lều trong thời gian 40 năm dân Do Thái
đi qua sa mạc, còn có ba Đền Thờ
đã lần lượt
được xây dựng tại Giê-ru-sa-lem là Đền Thờ Sa-lô-mon,
Đền Thờ Sau Lưu Đầy và Đền
Thờ thời vua Hê-rô-đê. + Có những
kẻ bán chiên bò, bồ câu và những người
đang ngồi đổi tiền: Tại sân lương
dân, các Tư tế cho một số người
vào bán chiên, bò và chim câu... để dân chúng
dễ dàng mua dâng vào
Đền Thờ làm lễ
vật hiến tế
(x. Ga 2,14 ; Lc 2,24). Cũng có cả những người
ngồi đổi tiền từ đồng tiền
của Rô-ma sang đồng
tiền riêng của
Đền Thờ. Lý do đổi tiền vì tiền Rô-ma lưu
hành ngoài xã hội có đúc hình và
ký hiệu của hoàng đế Xê-da được
coi như thần linh (x. Lc 20, 24-25), nên đã bị cấm
sử dụng trong Đền Thờ. Người Do
Thái muốn đóng thuế tôn giáo hay góp tiền
trùng tu Đền Thờ (x. Lc 21,1-2) phải đổi
từ đồng tiền Rô-ma lưu hành ngoài xã hội
thành đồng tiền Đền Thờ tại
bàn đổi tiền này, rồi mới được
bỏ tiền Đền Thờ vào thùng quyên góp (x. Ga
2,14). + Người liền lấy dây làm roi mà
xua đuổi tất cả...: Sự bất kính
do bọn con buôn gây ra khiến Đức Giê-su rất
đau lòng. Người nổi cơn thịnh
nộ và đã lấy
các đoạn dây
thừng cột chiên bò bỏ lại đó đây, chắp lại làm
thành dây roi, và dùng dây roi này mà đánh đuổi
bọn con buôn và các con vật
ra khỏi Đền
Thờ.
- C 16-19: + “Đừng
biến nhà Cha tôi thành nơi buôn bán”: Nói câu này, Đức
Giê-su đã gián tiếp
nhận mình là Con Thiên Chúa ngang hàng với Thiên Chúa. “Nơi buôn bán”
hay “hang trộm cướp” là kiểu nói diễn
tả tình trạng bất kính trong Đền Thờ,
một nơi tôn nghiêm được dành riêng thờ phượng Đức
Chúa. Thế là ứng nghiệm lời các
ngôn sứ đã tuyên sấm để quở trách dân Do
Thái (x. Gr 7,11). + “Vì nhiệt tâm lo việc nhà
Chúa mà tôi đây sẽ phải thiệt thân”: “Sẽ
phải thiệt thân” nghĩa là “sẽ phải chết”.
Như vậy ý nghĩa lời Thánh Vịnh
69,10 như sau: Lòng nhiệt thành với Đền
Thờ sẽ khiến
Đức Giê-su bị người đời
bách hại (x. Ga 15,5). + Người Do Thái hỏi
Đức Giê-su: “Ông lấy dấu lạ nào chứng
tỏ cho chúng tôi
thấy là ông có quyền làm như thế?”:
“Người Do Thái” trong câu này ám chỉ các
đầu mục của
Đền Thờ là các Tư tế và
thầy Lê-vi đang phục
vụ Đền Thờ. Họ bực tức khi thấy Đức Giê-su đánh đuổi bọn con
buôn ra khỏi Đền Thờ mà chính họ đã cho phép. Do đó
họ hạch hỏi Đức Giê-su đã dựa
vào dấu lạ nào để chứng minh Người có quyền làm như thế. Trước
đây họ cũng nhiều lần đòi Đức
Giê-su phải làm
phép lạ cho họ thấy để tin Người đã
được Thiên
Chúa sai đến (x. Mt 12,38 ; Mc 8,11 ; Lc 11,16). + “Các
ông cứ phá Đền Thờ này đi, nội
trong ba ngày Tôi sẽ xây dựng lại”: Ở
đây, Đức Giê-su cho họ một phép lạ
làm chứng Người được
Thiên Chúa sai đến, là Người sẽ sống
lại nội trong ba ngày sau khi chết. Tuy nhiên Đức
Giê-su sử dụng kiểu nói dụ ngôn mà các
ngôn sứ hay dùng là gọi thân thể Người là Đền Thờ.
Câu này có nghĩa là: Dù thân xác Người có bị giết chết thì cũng
chỉ trong ba ngày sẽ sống lại.
- C 20-22: + Phải mất
bốn mươi sáu năm mới xây xong: Do các
đầu mục Do Thái đã hiểu lời
Đức Giê-su
theo nghĩa đen nên đã nói đến thời gian xây dựng Đền Thờ vật chất phải mất
46 năm (Khởi công năm 20 trước Công Nguyên
và đến năm 26 sau Công nguyên mới tạm
hoàn thành những công trình chính),
đang khi ý Đức Giê-su lại muốn nói Đền Thờ
là Thân Thể của Người. Sau này khi Thượng
Hội Đồng Do Thái xét xử Đức
Giê-su do Thượng Tế
Cai-pha làm chủ tọa,
có hai kẻ đã
đứng ra cáo
gian Người rằng: “Tên này đã tuyên bố: Tôi có thể phá
Đền Thờ Thiên Chúa và nội trong ba ngày
sẽ xây cất lại” (Mt 26,61). Các đầu mục còn nhắc
lại lời tố
cáo này khi lăng
nhục Đức Giê-su
trên thập giá (x. Mt 27,40). + Nhưng Đền Thờ
Đức Giê-su muốn nói ở đây là
chính Thân Thể Người: Thân Thể Đức
Giê-su phục sinh là nơi Thiên Chúa hiện diện
và tỏ mình ra cho loài người (x. Ga
1,14). Thân thể ấy là Đền Thờ Mới,
nơi thờ phượng Thiên Chúa trong Thần
khí và Sự thật (x. Ga 4,23-24). + Khi Người
từ cõi chết trỗi dậy, các môn đệ
nhớ lại Người đã nói điều
đó: Chỉ dưới ánh sáng Phục
Sinh và được
Thánh Thần tác động, các môn đệ
mới có thể hiểu
chính xác các lời nói việc làm của
Đức Giê-su (x. Ga 12,16; 14,26).
- C 23-25: + Nhiều kẻ
tin vào danh Người, nhưng chính Đức
Giê-su lại không tin họ: Phép lạ chỉ có tác dụng kích thích
tính tò mò khiến người ta đến xem để
biết thực hư ra sao, còn đức tin có
được là do tai nghe (x. Rm 10,17) chứ
không do mắt thấy
(x Ga 20,29). Một số khá đông dân chúng đã
tin Đức Giê-su vì thấy các phép lạ
Người làm (x. Ga 12,17-18). Nhưng đức
tin dựa trên mắt thấy là thứ
đức tin bất toàn và không bền vững. Do đó Đức
Giê-su không tín nhiệm hạng tín hữu này. Thực vậy, trong số đám đông dân chúng
đòi kết án tử hình thập giá
cho Chúa trước tòa Phi-la-tô, chắc không thiếu những
kẻ đã từng tung hô khi đón rước Người vào Thành
trước đó mấy ngày (x. Lc 19,37-38; Ga
12,12-15). + Đàng khác, phép lạ không đương
nhiên dẫn đến đức tin: Các biệt
phái và Kinh sư đã chứng kiến nhiều
phép lạ Người làm, thế mà họ
đâu có tin Người, trái lại còn đòi quan Phi-la-tô kết án tử hình
thập giá cho Người
(x. Ga 11,45-53). Ngòai ra, họ còn xuyên tạc phép lạ
trừ quỉ của
Đức Giê-su như sau: “Ông ta nhờ tướng
quỉ mà trừ quỉ” (Mc 3,22). + Người
biết họ hết thảy: Đức Giê-su biết
rõ ý đồ của dân chúng theo Người
là do vụ lợi, nên đã nói với
họ rằng: “Các ông đi tìm tôi không phải
vì các ông đã thấy dấu lạ, nhưng
vì các ông đã được ăn bánh
no nê” (Ga 6,26). Người đòi bệnh nhân phải
có đức tin như
điều kiện để Người làm phép lạ chữa lành cho họ (x Mc 5,34). Người
khen đức tin
mạnh mẽ của người
đàn bà xứ
Ca-na-an trước
khi chính thức chữa
bệnh cho con gái
bà (x Mt 15,28). Người đã không làm phép lạ
ở Na-da-rét do dân làng
không tin Người là Đấng Thiên Sai (x Mt
13,58).
4. CÂU HỎI: 1) Lễ
Vượt Qua là đại lễ kỷ niệm
biến cố nào trong lịch sử dân Ít-ra-en?
2) Đền thờ là gì? Trong lịch sử
có mấy Đền thờ đã được
xây dựng tại Giê-ru-sa-lem? Đền thờ thời
Đức Giê-su là Đền Thờ thứ mấy?
3) Tại sao trong Đền
thờ Giê-ru-sa-lem lại có cảnh buôn bán chiên
bò, bồ câu và đổi tiền? 4) Đức
Giê-su đã có thái độ nào trước
hiện tượng bát nháo bất kính nói
trên? 5) Đức Giê-su đã trả lời thế
nào khi người Do thái hạch hỏi người
về quyền xua đuổi
con buôn ra khỏi Đền thờ? 6) So sánh câu nói
của Đức Giê-su về việc phá hủy
Đền thờ trong Tin Mừng hôm nay với
lời hai nhân chứng cáo gian Người
trước tòa Thượng tế Cai-pha khác nhau thế nào? Họ
còn nhắc lại điều cáo gian này vào
lúc nào? 7) Thực ra Đền thờ Đức
Giê-su nói tới ở đây ám chỉ
điều gì? 8) Đức tin chân chính là
do mắt thấy hay bởi tai nghe? Phép lạ
có đương nhiên khiến kẻ vô tín tin Chúa không? Tại sao?
9) Đức Giê-su
làm phép lạ nhằm
mục đích gì?
Người đòi
bệnh nhân điều kiện gì trước khi
chữa lành cho họ?
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA:
“Đem tất cả những thứ này ra khỏi
đây. đừng biến nhà Cha Tôi thành nơi
buôn bán” (Ga 2,16):
2. CÂU CHUYỆN:
1) MỖI TÍN HỮU ĐỀU LÀ ĐỀN THỜ CỦA THIÊN
CHÚA:
Vua Tra-ja-no là hoàng đế cai trị nước Rô-ma
từ năm 98 đến
năm 117. Nhà vua đã cấm đạo, và đã bắt thánh Ignatio giám mục thành Antiochia. Tại tòa án, nhà vua đã chế nhạo đạo công giáo, rồi gọi thánh Ignatio là thằng quỉ xấu xa, thánh
Ignatio giám mục thưa lại
rằng:
- Tâu đức vua, chẳng có ai gọi người mang Thiên
Chúa trong mình là thằng quỉ
dữ được.
Nhà vua hỏi lại:
- Vậy ông mang Thiên Chúa trong mình ư?
Thánh Ignatio giám mục trả lời:
- Tâu đức vua, phải - tôi mang Thiên
Chúa trong mình, vì những người
đã chịu phép
rửa tội, sống
đời sạch tội, đều là đền thờ của Thiên
Chúa. Bởi vậy, không
hạnh phúc nào lớn lao cho bằng người
công giáo, bằng được
trở nên đền
thờ Thiên Chúa; và cũng chẳng có gì can hệ
cho con người bằng phải luôn là đền thờ cho Thiên Chúa
ngự.
Nghe xong, hoàng đế Trajano đã lên án rằng:
- Ignatio thành Antiochia là người đã cậy mình vì mang Thiên Chúa trong mình
nên phải điệu
đến Roma, để làm của ăn cho thú dữ.
Trong Mùa Chay, hội thánh muốn các tín hữu chúng ta thanh tẩy đền thờ tâm hồn của mình như lời thánh Phaolô: "Nào
anh em chẳng biết rằng
anh em là Đền Thờ
của Thiên Chúa, và Thánh Thần Thiên Chúa ngự
trong anh em sao?" (1Cr 3,16).
2) NHÀ THỜ CẦN MỞ RỘNG CỬA
ĐÓN NHẬN MỌI
NGƯỜI.
GANDHI được tôn vinh là Cha Già của Ấn Độ khi còn
là sinh viên đi du học tại
Nam Phi, một thuộc địa của nước Anh. Nước
này nổi tiếng về
tệ nạn phân biệt
chủng tộc da trắng với da màu. Trong thời gian học tập, Gandhi
có dịp đọc
Kinh thánh của Ki-tô
giáo và lập tức bị
giáo thuyết Tám
Mối Phúc trong Bài Giảng trên núi của Đức Giê-su cuốn hút. Ông rất tâm đắc trước lời Chúa dạy về một tình
yêu phổ quát và bình
đẳng giữa mọi
người, không phân biệt giầu nghèo, sang hèn, địa vị cao thấp, là Do
thái hay lương dân... Gandhi nghĩ rằng : Có lẽ Ki-tô giáo là giải pháp tối ưu và hữu hiệu để giải quyết
tận gốc tệ nạn phân biệt giai cấp trong xã hội Ấn độ là
quê hương của ông.
Gandhi nghĩ mình nên tìm hiểu và
sẽ gia nhập vào
Ki-tô giáo.
Ngày nọ, Gandhi đi bộ đến một
nhà thờ để
biết về lễ nghi trong đạo và cũng
để tìm hiểu thêm về giáo lý Ki-tô giáo. Tuy nhiên, khi
ông bước đến cửa
nhà thờ thì bị người giữ cửa
chặn lại không cho ông vào nhà thờ. Bấy giờ ông cho biết ý định tìm hiểu đạo của mình. Nhưng
thật là bất ngờ khi người giữ
cửa nói như sau:”Đây là nhà thờ dành riêng cho người da trắng. Nếu mi muốn
tìm hiểu đạo,
thì hãy tìm đến nhà
thờ dành riêng cho dân
da mầu mà xin!” Gandhi
rất tức giận và
bỏ ra về. Ông
đã ghi lại cảm tưởng
của ông trong tập
nhật ký như sau: ”Tôi rất thán phục
Đức Giê-su và giáo thuyết đầy tình nhân ái khoan dung của Ngài. Thế nhưng tôi rất bất mãn khi tiếp xúc với các tín hữu là môn đệ của Ngài ! Nếu đạo Ki-tô cũng
phân biệt chủng tộc
như vậy, thì Ki-tô giáo có hơn gì Ấn giáo có sự phân biệt giai cấp của tôi ?
Thôi, tôi cần chi phải
gia nhập vào đạo
này. Tốt nhất là
tôi cứ chấp nhận có
bất toàn trong Ấn giáo và cố gắng sống theo giáo lý
truyền thống của
cha ông là đủ”!
Chính thái độ phân biệt chủng tộc của người
giữ cửa nhà thờ
đã trở thành
rào cản Gan-dhi đến
với đạo của Đức Giê-su. Chúng ta nên
suy nghĩ về lời
nguyện được viết trên cửa một nhà thờ như sau:
“Lạy Chúa, xin làm cho cánh cửa này đủ
rộng để có thể đón tiếp
mọi người nào cần đến tình thương của đồng loại, anh em, nhưng
cũng đủ hẹp để có thể ngăn chận mọi kiêu
căng, ganh tị, bất
hoà. Xin làm cho ngưỡng
cửa này đủ
phẳng để buớc chân của trẻ thơ và những người lầm
đường lạc lối vào đây mà không bị vấp ngã. Xin làm cho
nhà này là nhà cầu nguyện
và là cổng dẫn vào
Nước Chúa”. (Theo
Flor McCarthy).
3) PHẢI THỜ CHÚA TRONG THẦN KHÍ VÀ SỰ THẬT:
Người ta kể rằng: một người
kia nằm mơ, thấy thiên sứ dẫn mình đến một ngôi nhà thờ trong một ngày chúa nhật. Tại đó người này thấy
người nhạc sĩ đang đàn phong cầm nhưng không nghe thấy tiếng âm nhạc, ca đoàn và cộng đoàn hát nhưng
không nghe có âm thanh nào cả.
Rồi đến khi linh mục đứng lên giảng, môi mấp máy, nhưng không ra tiếng nói nào cả. Người ấy rất
đỗi ngạc nhiên hỏi thiên sứ,
thì thiên sứ nói:
"Ông không nghe thấy gì,
vì không có gì để nghe cả.
Những người trong nhà thờ không tham dự
vào buổi thờ phượng,
mà chỉ dự phần
vào hình thức thờ
phượng mà thôi. Tâm hồn họ trống rỗng. Họ không thờ phượng Chuá từ trong cõi lòng. Họ chỉ là những chiếc máy vô hồn phát ra. Họ nếu không nói là giả hình thì cũng là những loại người thờ
Chuá bằng môi bằng miệng, còn lòng dạ họ đã xa Chuá
lâu rồi.
Câu chuyện này dạy chúng ta một bài học quan trọng: khi vào nhà thờ thờ phượng Chúa,
chúng ta cần đọc
kinh cầu nguyện với thái độ tin tưởng và yêu mến. Hãy hát ngợi khen Chúa với lòng mến yêu tha thiết. Khi nào ta làm được như thế thì việc thờ phượng mới
có ý nghĩa. Và chỉ
những lúc đó, lời
ca ngợi của chúng ta mới bay lên tới
Chúa được.
4) “TIẾNG CHIM HÓT TRONG
BỤI MẬN GAI”-
CÂU CHUYỆN VỀ SỨC MẠNH CỦA
ĐỒNG TIỀN
Thỉnh thoảng đài
truyền hình VN lại cho chiếu lại bộ phim:
“Tiếng chim hót trong bụi mận gai” mà tác
giả là một nữ văn sĩ người
Úc đạo Tin Lành. Khi viết cuốn tiểu
thuyết này, bà đã đứng trên quan
điểm của đạo Tin Lành để phê phán
luật độc thân của hàng giáo sĩ Công
Giáo. Tuy nhiên, câu chuyện này cũng là dịp để chúng
ta suy nghĩ về sức mạnh của đồng
tiền đã tác động không những trên
cuộc đời của
một linh mục mà còn ảnh hưởng
lớn lao đến
uy tín của Hội Thánh nữa.
Câu chuyện về một linh
mục là Cha RÁP (Ralph): RÁP là một linh mục trẻ
nhiều tài năng nhưng cũng đầy tham vọng.
Vị linh mục này có nhiều ưu điểm,
có sức cuốn hút mạnh mẽ khiến nhiều người
đến với mình, nhưng đồng thời
ông cũng muốn được nổi danh và ham
mê tiền bạc vật chất.
Trong số các người mến mộ cha Ráp,
có một bà già quí phái giàu có,
bà quí mến Cha cách đặc biệt, nhưng
tình cảm của bà không được cha
đáp lại, nên từ
tình yêu biến thành thù hận. Tuy nhiên,
thay vì trả thù theo kiểu thường tình,
bà già này đã cố tình gài bẫy
để bôi đen cuộc đời của vị linh mục trẻ
bằng cách:
Trước khi chết,
bà đã làm
một bản di chúc dâng
cúng toàn bộ tài sản kếch sù của
bà cho Hội Thánh Công Giáo, với điều
kiện là Hội thánh
phải bổ nhiệm Cha Ráp trực tiếp quản lý số tài sản
đó. Do quản lý
nhiều tiền, Cha
Ráp đã được
bề trên cất nhắc
lên địa vị cao trong Hội Thánh, nhưng đồng
thời những đồng tiền mà Cha quản
lý kia cũng biến đổi lòng đạo
đức của Cha ngày càng xuống cấp, để rồi cuối cùng
cha đã bị sa ngã
trong vòng tay của một thiếu nữ xinh đẹp tên là Mê-ghi.
Câu chuyện nhằm chỉ trích Giáo Hội Công giáo, nhưng cũng
nói lên một sự thực:
Giáo Hội của
Đức Ki-tô tuy bản
chất tinh tuyền, nhưng lại gồm những con người
bằng xương bằng thịt và có thể bị ảnh hưởng xấu
bởi tiền của. Tiền bạc rất quan trọng
và cần thiết cho
mọi người, mọi tổ chức và cho cả Giáo Hội tồn tại và phát triển. Nhưng tiền thay vì
là phương tiện, dễ
trở thành chủ nhân
của người chiếm
hữu nó, như lời
Chúa cảnh giác
hôm nay: “Các con không thể vừa
làm tôi Thiên Chúa vừa
làm tôi tiền của”
(Mt 6,24).
3. SUY NIỆM:
1) ĐỨC GIÊ-SU THANH TẨY ĐỀN THỜ GIÊ-RU-SA-LEM:
"Cứ mỗi dịp gần Tết kéo
dài đến tháng ba
(âm lịch) hằng năm,
cổng chùa lại léo
xéo cảnh đổi tiền
lẻ vào lễ chùa.
Những tờ tiền 200,
500 đồng được đổi thành từng cục như viên gạch mộc, cứ "10
ăn 8 hoặc 10 ăn 7". Tức 100.000 đồng tiền
chẵn thì đổi
được 70.000 hoặc 80.000 đồng loại chuyên
dùng để "sắp lễ"
(200, 500 đồng). Không biết bao nhiêu triệu
đồng tiền "bé" được quay vòng cả năm không chán: người đi lễ đổi
tiền, tiền ấy được ném vào xó xỉnh, cài vào chân tay, nách,
đùi của các pho tượng đẹp nổi tiếng
của quốc gia; rồi nhà chùa xách túi hoặc rổ rá đi gom tiền ấy lại đem ra
đổi ngoài cổng
chùa. Và vòng quay lại
bắt đầu.
Đó là trích từ một bài viết trong Tuổi Trẻ Online diễn
tả về tệ nạn xảy ra thường xuyên
tại nhiều ngôi
chùa Việt Nam thời gian
gần đây, và đã bị dư luận lên án gay gắt. Câu chuyện người ta dùng tiền lẻ làm ô uế đình chùa Việt Nam cũng tương tự
như câu chuyện dân
Do thái làm ô uế Đền
Thờ Giê-ru-sa-lem, khiến
Đức Giê-su phải
ra tay thanh tẩy như trong Tin Mừng Gio-an sau đây
ghi lại:
“Người thấy trong
Đền Thờ có những kẻ bán
chiên, bò, bồ câu, và những người
đang ngồi đổi tiền. Người liền
lấy dây làm roi mà xua đuổi tất cả bọn
họ cùng với chiên bò ra khỏi Đền
Thờ. Còn tiền của những người
đổi bạc, Người đổ tung ra, và
lật nhào bàn ghế của họ. Người
nói với những kẻ bán bồ câu:
“Đem tất cả những thứ này ra khỏi
đây, đừng biến nhà Cha Tôi thành nơi
buôn bán” (Ga 2,14-16).
Hành
động xua đuổi bọn con buôn ra khỏi
Đền Thờ của Đức Giê-su cho thấy: Việc
lạm dụng Đền Thờ để tìm tư lợi là làm mất
đi sự trang nghiêm của nơi thờ phượng và làm ô uế
Đền Thờ,… Đó là một trọng tội cần
phải được cấp thời chấn chỉnh.
Đức Giê-su
đòi người ta trả lại chức
năng thực sự của Đền thờ khi nói: “Đừng biến
nhà Cha Tôi thành nơi
buôn bán” (Ga 2,16b). Qua hành động này, Đức Giê-su cũng gián tiếp
bác bỏ
lối thờ phượng Thiên Chúa hình thức bề ngoài, đúng như ngôn sứ
I-sai-a đã tuyên
sấm lời Đức Chúa quở trách dân Do thái xưa: “Dân này
tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại
xa Ta” (Mc 76b; Is 29,13).
2) CẦN TUÂN GIỮ LỀ LUẬT THẾ
NÀO?
Một
người do thái
nọ muốn sống thánh thiện nên đến xin ý kiến của
một vị Rabbi. Vị Rabbi hỏi :
– Từ
trước tới nay anh sống thế nào ?
– Rất
tốt, thưa ngài.
– Anh
nói “rất tốt” nghĩa là sao ?
– Nghĩa
là tôi không vi phạm giới luật nào cả. Tôi không kêu tên Chúa vô cớ, tôi không tục
hóa ngày sabát, tôi không bất
kính với
cha mẹ, tôi không giết người, tôi không bất
trung với vợ tôi, tôi không
trộm cắp, tôi không làm chứng
dối, tôi không tham muốn của cải và vợ người
khác.
Vị
Rabbi nói :
– Tôi
hiểu. Anh đã không vi phạm giới luật nào cả.
–
Đúng vậy, thưa ngài.
Nhưng
vị Rabbi hỏi tiếp :
– Nhưng
anh có tuân giữ các giới luật không ?
–
Ngài hỏi vậy nghĩa là sao ạ ?
– Nghĩa
là : anh có tôn kính thánh Danh Chúa không ? Anh có thánh
hóa ngày sabát không ? Anh có hiếu kính cha mẹ không ? Anh có tôn trọng
và bảo
vệ mạng sống của người khác không ? Anh có biểu
lộ tình yêu
đối với vợ con bằng lời nói hay hành động không ? Anh có chia sẻ
của cải cho người nghèo không ? Anh đã bảo
vệ danh dự và tiếng tốt cho người
bị hại chưa ? Anh có hay giúp đỡ người
khác không ?
Người
Do thái ra đi và
suy nghĩ miên man. Từ trước tới
nay anh chỉ nhìn
các giới luật theo khía cạnh tiêu cực nên mọi cố
gắng của anh chỉ là làm sao khỏi vi phạm luật. Nhưng
hôm nay vị
Rabbi vừa chỉ cho anh một cách nhìn mới hẳn : không chỉ cố
tránh vi phạm
Luật, mà còn phải
làm những
việc tốt Luật dạy.
Kitô
hữu ngày nay
cũng cần lưu ý :
–
Chúng ta tuân giữ lề luật không phải vì sợ Chúa phạt, mà vì lòng yêu mến
Chúa.
–
Chúng ta giữ luật không phải để được Chúa yêu, mà giữ luật để
đáp lại
tình Chúa đã yêu
thương ta.
3) HÃY TÔN TRỌNG THÂN XÁC LÀ ĐỀN THỜ CỦA CHÚA THÁNH THẦN:
-
Để trả lời những kẻ chất
vấn lấy quyền nào để ra tay xua đuổi bọn
con buôn ra khỏi
Đền Thờ, Đức Giê-su đã trả lời như sau:
“Các ông cứ
phá hủy
Đền thờ này đi, nội ba ngày Tôi sẽ xây dựng lại”
(Ga 2,19). Qua đó,
Đức Giê-su ám chỉ Người chính là Đấng Thiên Sai và thân thể
của Người giống như Đền Thờ, sẽ
bị tàn phá do
người đời, nhưng đến ngày thứ ba Người
sẽ từ cõi
chết trỗi dậy.
-
Ngoài ra thân xác mỗi người chúng ta cũng là Đền
Thờ của Thiên
Chúa như thánh Phao-lô dạy: “Nào anh em chẳng biết
rằng anh em là
Đền Thờ của Thiên Chúa và Thánh Thần
Thiên Chúa ngự
trong anh em sao? (I Cor 3,16.19). Do đó, chúng ta phải tôn trọng
Đền Thờ của Chúa Ba Ngôi là thân xác chúng ta như lời
Chúa Giê-su: “Ai yêu
mến Thầy và tuân giữ lời Thầy, thì Cha Thầy sẽ
yêu mến
người ấy và Chúng Ta (tức Ba Ngôi Thiên Chúa) sẽ đến ngự
trong người ấy” (Ga 14, 23).
4) HÌNH PHẠT DÀNH CHO NHỮNG KẺ LÀM Ô UẾ
ĐỀN THỜ:
- Những
ai làm cho Đền
Thờ thân xác
mình và Đền Thờ là anh em khác ra ô uế thì Đức Giê-su rất đau
lòng như Người
đã lên án những
kẻ xúi giục
người ta phạm tội: “Khốn cho kẻ làm cớ cho
người ta vấp ngã. Thà buộc cối đá lớn vào cổ nó và xô xuống biển,
còn lợi
cho nó hơn là
để nó làm cớ cho một trong những kẻ bé nhỏ này vấp ngã” (Lc 17,1b-2). Thánh Phao-lô cũng
quả quyết về hình phạt dành cho những kẻ
này: “Ai phá hủy
Đền Thờ Thiên Chúa, thì Thiên Chúa sẽ hủy diệt kẻ
ấy. Vì Đền
Thờ Thiên Chúa
là nơi thánh, và Đền Thờ ấy chính là anh em” (I Cr 3,17).
- Ngày nay Đức Giê-su cũng muốn các
nhà thờ phải
thật sự là nơi thờ phượng
Thiên Chúa trong “Thần
khí và sự thật”
(x Ga 4,24). Người muốn nhà thờ là nơi để con
người gặp gỡ Thiên Chúa. Tuy
nhiên, nhìn vào các nhà thờ hiện nay, chúng ta thấy nhiều khi
nhà thờ đã trở
thành một nơi sinh
hoạt vui chơi văn nghệ như múa lân, múa hát,
diễn kịch xã hội vào các dịp Lễ Tết ngay trên gian
cung thánh, làm mất đi bầu
khí trang nghiêm lẽ ra
phải có. Nên biết
rằng: Khi ra giảng đạo, Đức Giê-su muốn môn đệ hãy cầu nguyện trong thinh lặng, và
chính Người ngay từ
sáng sớm đã
vào nơi hoang vắng để
cầu nguyện kết hiệp với Chúa Cha (x Mc
1,35).
5) THANH TẨY ĐỀN THỜ THÂN XÁC VÀ TÂM HỒN
THẾ NÀO ? :
- Tin Mừng CN hôm nay ghi nhận việc Đức Giê-su
thanh tẩy đền thờ
Giê-ru-sa-lem. Người
cũng muốn chúng ta tiếp tục công việc của Người là giữ gìn thân xác ta là đền thờ thiêng liêng của Chúa Thánh Thần. Chúng ta cần luôn thanh tẩy tâm hồn và thân xác xứng đáng được Chúa ngự trị.
Hãy kính trọng thân xác của mình và của tha nhân.
Hãy tu sửa các đền thờ thân xác chúng ta và tha
nhân đang bị xuống
cấp, bị xúc phạm.
Hãy sửa chữa đền thờ là
thân xác ta đang bị bệnh
tật, đói khát và mang thương tích.
Cần thanh tẩy tâm hồn chúng ta khỏi
tội thờ thần tài khi coi trọng tiền bạc hơn Thiên
Chúa.
Cần thanh tẩy tâm hồn chúng ta khỏi
các đam mê dục vọng
đang làm ô uế
đền thờ tâm hồn chúng ta.
Cần thanh tẩy tâm hồn chúng ta khỏi
thói gian tham và cư xử
bất công với người
dưới.
Cần thanh tầy tâm hồn chúng ta khỏi
các thói hư, đặc
biệt thói kiêu căng ganh ghét và tự ái cao.
-
Trong những ngày Mùa Chay này, mỗi tín hữu hãy năng tự
kiểm điểm để tìm ra những điều làm cho đền Thờ
tâm hồn
mình ra ô uế,
rồi quyết tâm
tu sửa. Chúa Giê-su đã cho biết nguyên nhân làm cho người
ta ra ô uế
là từ
trong tâm hồn:
“Vì tự
lòng phát xuất
những ý định
gian tà, những
tội giết người, ngoại tình, tà dâm, trộm
cắp, làm chứng
gian và vu khống.
Đó mới
là những
cái làm cho con người
ra ô uế”
(Mt 15,19-20). Trong Mùa
Chay này, chúng ta cần tập luyện các nhân đức
đối lập với thói hư. Cụ thể cần tập
hai nhân đức
quan trọng này
là hiền lành và khiêm nhường
để nên giống
Đức Giê-su
như Người đã dạy: “ Hãy học với
Tôi, vì Tôi có lòng
hiền hậu và khiêm nhường” (Mt 11,29).
4. THẢO LUẬN: 1) Bạn sẽ làm gì để học tập nhân
đức hiền lành
và khiêm nhương của
Chúa Giê-su? 2) Giả như được tin Đức Giê-su sắp đến thăm viếng nhà bạn, thì bạn
sẽ làm gì để thanh tẩy tâm hồn xứng đáng
đón rước Chúa?
5. LỜI CẦU:
- LẠY
CHÚA GIÊ-SU. Xin làm cho cánh cửa nhà thờ
đủ rộng để có thể đón tiếp mọi
người cần đến tình thương của
đồng loại. Nhưng cũng đủ hẹp để
ngăn chận các
thói xấu như kiêu căng, ganh tị, bất hòa...
Xin
làm cho ngưỡng cửa các nhà thờ đủ phẳng
để những bước chân của trẻ thơ và những người
lầm đường lạc lối đi qua đây khỏi bị
vấp ngã.
Xin
làm cho các nhà thờ trở thành nhà cầu nguyện và thành cổng dẫn
đưa chúng
con vào Nước Chúa. (Viết theo Flor McCarthy)
- “Lạy Chúa Giê-su. Tình yêu của con. Nếu Hội thánh được ví như một thân thể gồm nhiều chi thể khác
nhau, thì hẳn Hội thánh
không thể thiếu một
chi thể cần thiết nhất và cao quý nhất. Đó là trái tim, một trái tim bừng cháy tình yêu. Chính tình yêu làm
cho Hội thánh hoạt động. Nếu trái
tim Hội thánh vắng bóng tình yêu, thì các
tông đồ sẽ ngừng
rao giảng, các vị
tử đạo sẽ chẳng chịu đổ máu
mình...
Lạy Chúa Giê-su. Cuối
cùng con đã tìm thấy
ơn gọi của con chính là tình yêu. Con đã tìm thấy chỗ đứng của
con trong Hội thánh: nơi
trái tim Hội thánh, con
sẽ là tình yêu, và như
thế con sẽ là tất cả. Vì tình yêu bao
trùm mọi ơn gọi
trong Hội thánh. Lạy
Chúa, với chỗ
đứng Chúa ban cho con, mọi ước mơ của con sẽ được
thực hiện.” (Theo lời cầu của thánh nữ Têrêxa)
X) HIỆP CÙNG MẸ
MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
LM ĐAN VINH - HHTM
|