HIỆP SỐNG TIN MỪNG
CN 33 TN A - LỄ CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM (24/11)
2 Mcb 7,1.20-23.27b-29; Rm 8,31b-39; Ga
12,20-32
CẦN LÀM CHỨNG CHO CHÚA NHƯ
THẾ NÀO?
I. HỌC LỜI CHÚA
1.TIN MỪNG: Ga 12,20-32
(20) Trong số những người
lên Giê-ru-sa-lem thờ phượng Thiên Chúa, có mấy người
Hy Lạp. (21) Họ đến gặp ông Phi-lip-phê, người Bết-xai-đa miền
Ga-li-lê và xin rằng:
”Thưa ông, chúng tôi muốn
được gặp ông Giê-su”. (22) Ông Phi-lip-phê đi
nói với ông An-rê. Ông
An-rê cùng với ông
Phi-lip-phê đến thưa
với Đức Giê-su. (23) Đức Giê-su trả lời: ”Đã đến giờ Con Người
được tôn vinh ! (24) Thật, Thầy bảo thật anh em: Nếu hạt lúa
gieo vào lòng đất không
chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình.
còn nếu chết đi, nó
mới sinh được
nhiều hạt khác. (25) Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất. còn ai coi thường mạng sống mình
ở đời này,
thì sẽ giữ lại
được cho sự sống đời đời.
(26) Ai phục vụ Thầy, thì hãy theo Thầy, và Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ
ở đó. Ai phục
vụ Thầy, Cha của Thầy sẽ quý trọng người ấy. (27)
Bây giờ, tâm hồn Thầy xao xuyến ! Thầy
biết nói gì đây ? Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này. nhưng
chính vì giờ này mà Con
đã đến. (28) Lạy
Cha, xin tôn vinh danh Cha”. Bấy giờ có tiếng
từ trời vọng xuống: ”Ta đã tôn vinh danh
Ta. Ta sẽ còn tôn vinh
nữa !” (29) Dân chúng đứng ở đó nghe vậy liền nói: ”Đó
là tiếng sấm !” Người
khác lại bảo: ”Tiếng
một thiên thần nói
với ông ta đấy !” (30) Đức Giê-su
đáp: ”Tiếng ấy
đã vọng xuống
không phải vì
Tôi, mà vì các người.
(31) Giờ đây đang diễn ra cuộc phán xét thế gian này. Giờ
đây thủ lãnh
thế gian này sắp bị tống ra ngòai
! (32) Phần Tôi, một khi được giương
cao lên khỏi mặt
đất, Tôi sẽ
kéo mọi người
lên với Tôi”. (33) Đức Giê-su nói thế
để ám chỉ người
sẽ phải chết cách nào.
2. Ý CHÍNH:
Khi mấy người Hy-lạp đang ở
Giê-ru-sa-lem yêu cầu các
môn đệ cho được
gặp Đức Giê-su, thì Người tuyên bố rằng: “Đã đến giờ Con Người
được tôn vinh !” Sau đó, Người dùng hình ảnh một hạt lúa mì chỉ phát sinh thêm nhiều bông hạt khác nếu nó tự hủy đi. Cũng vậy, Người
cũng sẽ phải trải qua sự chết rồi mới
được vào trong vinh quang phục sinh. Về phần các môn
đệ, các ông cũng
cần phải đi con
đường của Người: Ai coi thường mạng
sống mình ở
đời này, sẵn
sàng thí mạng sống
mình vì Đức Giê-su,
thì sẽ có sự sống vĩnh cửu ở
đời sau như Người đã hứa: “Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng
sẽ ở đó”.
II. SỐNG LỜI CHÚA:
1.LỜI CHÚA: ”Đã đến giờ Con Người được
tôn vinh ! Thật, Thầy
bảo thật anh em: Nếu hạt lúa gieo vào lòng
đất không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình.
còn nếu chết đi, nó
mới sinh được
nhiều hạt khác”. (Ga 12,23-24).
2.CÂU CHUYỆN:
1) LOÀI NGƯỜI AI CŨNG SỢ CHẾT:
Một bác tiều
phu đi đốn củi. Đốn được một
bó to sắp mang về
thì bác bỗng chợt
nghĩ thấy đời mình sao khổ quá, tuổi đời cứ tăng lên,
sức khoẻ thì sút
đi, mà gánh nặng gia
đình vẫn không
đổi thay, lại thấy
nhiều người chẳng phải lo đến chuyện
cơm áo gạo tiền.
Bác mới kêu lớn lên: "Ước gì tôi được gặp Thần Chết!"
Bác vừa nói xong thì thấy Thần Chết đứng
ngay trước mặt, tay cầm lưỡi hái, miệng hỏi: "Ông lão
muốn điều gì?"
Bác liền sợ hãi
run lập cập và trả lời rằng: "Bó
củi to và nặng quá! Nhờ ngài giúp đưa nó lên vai
tôi với".
Thế đó, dù có gặp
đau khổ đến đâu, sự sống vẫn luôn được yêu quý hơn tất cả. Nhưng dù có
quý trọng và giữ gìn đến đâu, cái chết vẫn là một sự thực không ai có thể phủ nhận được
như lời Thánh vịnh:
"Mạng người dù giá cao mấy nữa, thì rồi ra cũng chấm dứt đời
đời. Nào phàm nhân sống mãi được sao mà chẳng
phải đến ngày tận số?" (Tv 49,9-10)
2) THÀY GIẢNG AN-RÊ PHÚ YÊN SẴN SÀNG CHẾT VÌ DANH CHÚA:
Một thanh niên 19 tuổi bị tuyên án tử hình mà không được nói một lời
để bào chữa
mình. Người tuyên
án là quan trấn tỉnh Phú
Yên. Vào tháng 7 năm 1644 vị
quan này từ triều
đình nhà vua về,
đem theo sắc lệnh cấm đạo và bắt đầu giam một ông
già tên rửa tội là
Anrê, rồi sai một toán
lính đến nhà vị thừa sai Đắc Lộc
để bắt thầy giảng số một là
Inbaxu. Khi toán lính xông vào nhà tìm thầy Inbaxu thì chỉ
gặp người thanh niên Phú Yên là người mà Cha Đắc Lộ đã rửa tội được ba
năm và đã từng
cho đi theo để giúp dạy giáo lý. Người thanh niên này đã can đảm nhận hết các tội chúng gán cho thầy Inbaxu và các thầy giảng, nên bị chúng trói lại và điệu đi. Anrê Phú Yên vui vẻ theo toán lính và trong suốt quảng đường
không ngừng giảng
cho những kẻ dẫn mình vào ngục biết đường tránh
hỏa ngục hầu hưởng
phúc Thiên Đàng.
Nhờ sự can thiệp của cha Đắc Lộ và
một số thương
gia người Bồ Đào Nha, ông già Anrê được tha bổng, còn Anrê
Phú Yên thì không. Người
thanh niên cường
tráng này dám cương quyết thà chết
chẳng thà bỏ
đạo nên sẽ
phải chết để nêu gương cho mọi người. Vậy lính
dẫn Anrê Phú Yên tới thửa ruộng cách
thành phố chừng nửa
dặm. Mặc dầu đeo gông nặng, Anrê đi rất nhanh đến nỗi cha Đắc
Lộ theo không kịp.
Tới nơi hành quyết,
thầy giảng trẻ tuổi Anrê quỳ xuống để tiếp tục
chiến đấu đến hơi thở cuối cùng.
Lính gác bao vây để
ngăn không cho ai được vào bên trong cả.
Tuy nhiên viên đội
trưởng cho phép cha Đắc Lộ được vào đứng bên cạnh thầy. Cha thấy rõ mắt thầy Anrê ngước nhìn trời cao, miệng luôn hé mở và không ngừng kêu danh thánh Giê-su.
Một tên lính lấy
giáo đâm thầy từ
phía lưng, thâu qua ngực
chừng hai bàn tay. Khi ấy thầy nhìn cha Đắc Lộ như để vĩnh biệt và cha
khuyên thầy nhìn lên trời là nơi thầy sắp được Chúa
Giê-su đón vào cõi phúc. Từ
giây phút đó thầy
chăm chú nhìn lên và không còn nhìn xuống nữa. Người lính
rút lưỡi giáo ra
đâm phát thứ hai, rồi
đến phát thứ
ba, hắn cố ý đâm trúng tim nhưng thầy vẫn chưa chết. Thấy
thế, một tên lính khác lấy mã tấu chặt
vào cổ thầy nhưng
vẫn chưa kết thúc được. Phải thêm một nhát thứ hai đầu thầy mới lìa
khỏi cổ, máu tuôn
trào lai láng. Hành quyết
xong, toán lính kéo nhau ra bờ sông rửa các
vết máu. Cha Đắc Lộ liền nhặt lấy
đầu thầy gói lại kỹ càng như một báu vật, còn
xác thầy thì ngài cho tẩm liệm rồi gởi xuống
tàu buôn đưa về
Ma-cao chôn cất.
3) THÁNH AN-RÊ TRẦN AN DŨNG LẠC CAN ĐẢM
LÀM CHỨNG CHO CHÚA:
Trần An Dũng Lạc sinh năm 1795, gia đình
ngoại giáo nghèo khó ở Bắc Ninh. Lớn lên,
cậu theo cha mẹ đến
xứ Kẻ Chợ sinh sống. Tại đây, cậu được một thầy
giảng nhận làm con nuôi và cho ăn học. Cậu được chịu
phép rửa tội và
nhận tên thánh là
An-rê. Sau đó cậu đáp
lại ơn gọi dâng
mình cho Chúa và theo học tại
chủng viện Vĩnh Trị. Thầy An-rê được thụ phong linh mục vào
năm 1823 khi được
28 tuổi. Từ khi thụ phong linh mục, cha An-rê
được sai đi giúp
xứ. Ở đâu
cha cũng nêu gương sáng đạo đức qua cuộc sống khổ hạnh. Ngoài
những ngày giữ chay theo luật định,
cha còn tự nguyện
giữ chay thêm suốt
cả Mùa Chay và các ngày Thứ Sáu Thứ Bảy
hàng tuần. Nhờ
đời sống đơn sơ khiêm hạ và khắc khổ như vậy, nên
cha đã gây được
thiện cảm của những người chung quanh và
thành công trên bước
đường tông đồ: qua cha, nhiều tội nhân đã được ơn giao hòa với Chúa và nhiều người lương đã
tin vào Chúa và xin gia nhập
đạo.
Khi đạo Công giáo bị bách hại gắt gao thời vua Minh Mạng,
cha An-rê Dũng đã phải trốn lánh ở nhiều nơi. Một lần kia ở Kẻ Roi,
khi vừa dâng lễ
xong thì bị quan quân
vây bắt và được giáo dân chuộc về. Sau đó cha đã
đổi tên Trần An Dũng thành Trần An Lạc. Lần thứ
hai cha bị bắt ở xứ Kẻ Sông khi đang
xưng tội với cha Phê-rô
Thi. Hai cha bị quan quân
đòi tiền chuộc tới
200 quan tiền. Nhưng giáo dân chỉ quyên góp được một nửa số tiền
nói trên, nên chỉ mình
cha Lạc được
thả. Rồi cha lại bị đám lính khác bắt mang về huyện giam
chung với cha Phê-rô Thi và cả hai được áp giải về Hà Nội.
Hôm sau, quan án cho điệu hai cha ra công đường tra xét và bắt phải bước qua Thánh
Giá để tỏ ý
bỏ đạo. Nhưng
thay vì làm theo lệnh
quan, hai cha lại cùng quì xuống hôn kính Thánh Giá và nói: “Không bao giờ chúng tôi chối Chúa và bỏ đạo cả. Chúng tôi đã
suốt đời hy sinh vất
vả đem Chúa đến cho người khác, thì lẽ nào bây giờ lại hèn nhát chối bỏ Chúa !”. Trước sự bất tuân của hai cha, quan tức giận
sai lính đem nhốt
các ngài vào ngục thất
và làm thành án gửi về
kinh. Suốt thời gian ở trong tù, hai cha luôn cầu nguyện và ăn
chay hãm mình, xin Chúa cho được ơn bền đỗ đến cùng. Tuy
giáo dân được phép
thăm nuôi hằng ngày,
nhưng hai cha yêu cầu họ
đừng đem đồ ăn ngon đến, và nếu bữa nào có thịt cá thì các ngài lại cho các bạn tù hoặc cho lính canh.
Ngày 21 tháng 12 năm 1839, hai cha
đã chính thức nghe
án lệnh xử trảm
của nhà vua. Rồi
hai cha bị điệu ra pháp trường Cầu Giấy ở Hà Nội. Đến nơi, các
ngài cầu nguyện ít
phút, rồi cúi đầu cho lý hình dễ dàng thi hành phận sự. Đức Thánh
Cha Lê-ô 13 đã tôn phong các ngài lên hàng chân phước tử đạo vào ngày
27 tháng 05 năm 1900. Và ngày 19 tháng 06 năm 1988, Đức Thánh Cha Gio-an Phao-lô
II lại nâng các ngài
lên bậc hiển thánh.
Hội Thánh cũng chọn làm lễ kính “Thánh An-rê Trần An Dũng Lạc Và Các Bạn Tử Đạo” hay lễ
kính “Các Thánh Tử
Đạo Tại Việt Nam”.
3. SUY NIỆM:
1) TỬ ĐẠO LÀ CHỌN CON ĐƯỜNG “QUA ĐAU
KHỔ VÀO VINH QUANG”:
Đức Giê-su đã tiên báo: “Con Người phải chịu đau khổ
nhiều, bị các kỳ
mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết,
và ngày thứ ba sẽ
trỗi dậy”. Rồi Người kêu gọi : “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính
mình, vác thập giá mình
hằng ngày mà theo” (Lc
9,22-23). Người tiên
báo : “Tôi tớ không lớn hơn chủ nhà. Nếu họ đã bắt bớ Thầy họ cũng
sẽ bắt bớ anh em” (Ga 15,20). Lời tiên báo này
đã được ứng
nghiệm như sau:
- Ứng nghiệm nơi Đức Giê-su:
Vào năm ba mươi tuổi,
Đức Giê-su đã thi hành sứ vụ đi rao giảng Tin Mừng Nước Trời.
Các đầu mục
Do thái do không tin Đức
Giê-su là Đấng Cứu
Thế, nên tìm mọi
cách để chống
lại Người: Họ tố cáo Người lộng ngôn phạm thượng khi dám gọi Thiên Chúa là Cha “Ab-ba”
(Cha ơi), và con xưng mình là Con Thiên Chúa; tố Người đã nhờ tay Quỷ Vương mà
trừ quỷ; Tố Người
phạm luật “hưu lễ” khi hành nghề chữa bệnh trong ngày
Sabat; Tố Người
đã xách động
quần chúng không nôp thuế cho chính quyền
Rô-ma... Cuối cùng
họ đã bắt Người và kết án tử hình cho Người trong Thượng Hội Đồng
Do Thái, rồi nộp
Người cho quan Tổng Trấn Phi-la-tô và làm áp lực để ông này phải kết án tử hình thập giá cho Người.
- Ứng nghiệm nơi các Tông
đồ: Sau lễ Ngũ
Tuần, Các Tông đồ
được đầy ơn Thánh Thần đã bắt đâu chu toàn sứ mệnh rao giảng Tin Mừng
cho muôn dân, bắt
đầu từ Giê-ru-sa-lem đến tận cùng thế giới là thủ đô Rô-ma. Các ông đã bị bắt bớ dánh
đòn và bị kết án
tử hình. Trong số 12 tông đồ thì ngoài Gio-an bị chết già, còn các vị khác đều bị giết chết vì
danh Chúa Giê-su. Tông đồ
Phê-rô bị đóng
đinh ngược và
tông đồ Phao-lô bị chém đầu tại thủ đô Rô-ma.
- Ứng nghiệm nơi Hội Thánh
Sơ Khai: Giáo Hội Chúa
Ki-tô đã trải qua gần
300 năm bị bách hại
do người Do Thái và do các hoàng đế Rô-ma. Đến triều hoàng đế Công-tăng-tanh, đạo mới được sắc
chỉ tha và sau đó đã trở thành quốc
giáo. Trong suốt thời
gian ấy, các tín hữu
đã phải trốn
tránh dưới các
hang hố đào trong
lòng đất, gọi là
các hang toại đạo tại
thủ đô Rô-ma. Rất
nhiều Tông đồ
và giáo dân đã bị
bắt bớ, xử tử, nhất là dưới triều hoàng đế Nê-rông.
- Ứng nghiệm nơi Hội Thánh
Việt Nam: Ngay từ thế
kỷ 16, các vị thừa
sai ngoại quốc đã đi theo các đoàn thương
thuyền vượt biển
từ các nước Âu
châu đến Việt Nam
giảng đạo theo lệnh Chúa truyền. Nhưng vua quan nước ta
thời đó do thiếu
khôn ngoan và hiểu biết,
đã đồng hóa
đạo với đế
quốc xâm lược,
và ra nhiều sắc
chỉ cấm đạo. Phong trào Cần Vương, Văn Thân thời đó đã khích
động dân chúng
đi phá các làng theo đạo,
đốt cháy nhiều
nhà thờ và bắt bớ các vị thừa sai, các đạo trưởng và những người có uy
tín trong đạo… Rất
nhiều tín hữu phải
bỏ lại nhà cửa,
ruộng vườn và sản nghiệp để chạy trốn vào những nơi rừng thiêng
nước độc
để bảo toàn mạng sống và để giữ vững đức tin. Đã có hàng
trăm ngàn tín hữu bị
bách hại trong thời
kỳ này: Họ bị
phân sáp thành vài ba người và phải vào
ở giữa làng người lương. Nhiều làng
công giáo bị đốt phá,
nhiều nhà thờ bị triệt hạ.
Trong số các tín hữu
bị giết hại ấy, Hội Thánh sau khi điều tra đã tôn phong 117
vị có đầy đủ hồ sơ chứng
tích vào hàng ngũ các thánh gọi là Các Thánh Tử
Đạo Việt Nam.
2) TỬ ĐẠO LÀ SẴN SÀNG CHỊU CHẾT VÌ ĐỨC TIN ĐỂ LÀM CHỨNG CHO CHÚA:
- Một trong những thử thách mà vua quan ngày xưa
áp dụng là đặt một cây thánh giá dưới đất rồi truyền
cho các tín hữu bị
bắt phải bước qua. Ai bước qua thánh
giá để tỏ dấu
công khai bỏ đạo
thì sẽ được
tha. Ai kiên quyết không
bước qua thánh giá
thì bị coi là ngoan cố nên sẽ bị hành hình đến chết.
- Trong số 117 vị thánh Tử Đạo Việt Nam có 8
Giám Mục, 50 Linh Mục,
59 Giáo Dân, một phụ
nữ là bà Anê Lê Thị
Thành, mẹ của sáu
người con. Các
ngài thuộc đủ mọi
thành phần xã hội, lứa tuổi, ngành
nghề như: công chức, thương gia, công
nhân, quân nhân, y sĩ, ngư phủ, trùm họ
v.v. Trong số đó, có một số nhà truyền giáo “ngoại
quốc” như người Pháp, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Ý… đã đến Việt nam truyền
đạo và đã được phúc tử vì
đạo.
- Các ngài đã phải chịu mọi cực hình
như: gông cùm xiềng xích
trong cũi, bị voi giầy,
bị trảm quyết (chặt đầu), xử giảo
(thắt cổ), bị thiêu sinh (bị đốt cháy trong lửa đến chết), bị
lăng trì (phân thây ra từng mảnh), bị bá đao (bị chém bằng trăm nhát đao), bị chết rũ tù (Chết bệnh trong thời gian
đang ở tù)… để biểu lộ lòng mến tột đỉnh như lời Chúa phán: “Không
có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã
hy sinh tính mạng vì
bạn hữu của mình”
(Ga 15,13).
3) TRỞ THÀNH NGƯỜI LÀM CHỨNG HAY THÀNH KẺ PHẢN CHỨNG:
a- Chúng ta cần làm chứng cho Chúa bằng sự thực thi giới
răn yêu thương:
- Trong gia đình: Vợ chồng sẽ làm chứng cho Chúa bằng cách vun sới tình yêu bằng sự tôn trọng lẫn nhau, cha mẹ quan tâm
nuôi dạy con cái nên người, con cái hiếu thảo vâng lời cha mẹ.
- Trong môi trường chung quanh: chúng ta chỉ chiếu sáng đức tin hay làm chứng cho Chúa cách hữu hiệu bằng lối sống
yêu thương, tha thứ
và khiêm nhường phục
vụ tha nhân. Học
trò làm chứng cho Chúa
bằng việc chăm chỉ
học hành, đạt
được thành tích cao. Các cầu thủ bóng đá, các vận động viên thi
đấu làm chứng cho Chúa bằng cách cố gắng đạt thành
tích cao và được tuyên
dương thăng thưởng…
b- Trái lại, chúng ta sẽ trở thành kẻ phản chứng:
- Trong gia đình: Khi ta không giữ lời thề chung thủy
vợ chồng, chiều theo các đam mê lạc thú bất chính, dẫn đến ly hôn, phá đổ hạnh phúc gia
đình. Khi cha mẹ nhẫn
tâm giết chết con
mình bằng cách áp
dụng các phương
pháp ngừa thai nhân tạo trái tự nhiên hoặc đi nạo phá thai.
- Trong môi trường chung quanh: Khi ta ích kỷ, chỉ nghĩ đến
mình, mà không quảng
đại cho đi và khiêm nhường phục vụ. Chỉ lo tìm
kiếm tiền bạc và
chức quyền bằng bất
cứ giá nào, dù phải
vi phạm các giới
răn của Chúa và của
Hội Thánh. Khi ta thụ
động trước những bất công và thờ ơ trước những
người nghèo đói bất hạnh đang sống ngay gần bên ta. Khi
ta nuôi lòng thù hận anh em,
không chịu tha thứ
và làm hòa theo lời Chúa
dạy. Khi ta thoả hiệp
với thế gian, cố tình bịt tai nhắm mắt trước những hà hiếp bất công, không dám
bênh vực những người
thấp cổ bé miệng
như Tin Mừng đòi hỏi.
4. THẢO LUẬN:
1) Tại sao đạo Công Giáo luôn bị người đời thù
ghét bách hại ?
2) Tử đạo là sẵn sàng chịu
chết để làm chứng cho Chúa (x. Cv 1,8). Mỗi người chúng ta phải làm chứng
cho Chúa thế nào
trước mặt anh em lương
dân ?
5.NGUYỆN CẦU:
LẠY CHÚA GIÊ-SU VỊ
TỬ ĐẠO TIÊN KHỞI. Xưa Chúa đã dạy các môn đệ
: “Anh em sống giữa thế gian, nhưng không thuộc về trần gian”. Xin
cho chúng con hôm nay đừng
bao giờ bỏ Chúa để chạy theo những cám dỗ của thế gian, ma quỉ và
xác thịt. Xin cho chúng
con luôn ý thức rằng:
“Con nhà tông không giống
lông, cũng giống cánh”
để chúng con luôn
sống xứng đáng
là những con cháu của các anh hùng Tử Đạo Việt Nam. Xin
cho chúng con luôn chiếu
ánh sáng tin yêu trước
mặt người đời: Biết nở nụ cười
thân ái mỗi khi tiếp
xúc với tha nhân;
Luôn chủ động
đi bước trước để làm quen với những người mới;
Động viên an ủi
những ai gặp tai ương hoạn nạn; Khiêm
nhường phục vụ
những người đau yếu bất hạnh… để
chúng con nên chứng nhân
cho Tình Thương của
Chúa và đưa được nhiều người về làm con Chúa trong
gia đình Hội Thánh.
X) HIỆP CÙNG MẸ
MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
LM ĐAN VINH - HHTM
|