4. VƯƠNG CUNG THÁNH
ĐƯỜNG THÁNH MÁCCÔ
Đây là Nhà thờ Chính tòa
của Giáo phận Venise từ năm 1807. Gần đó có Tòa
Giáo chủ Venise, nơi ở của vị Hồng y
Tổng Giám mục Giáo phận.
Quãng trường có rất
nhiều chim bồ câu, chúng thích gần gũi với du
khách như bên Tháp Eifen. Chúng tôi chiêm ngưỡng Nhà thờ
cổ kính tuyệt đẹp.
Mặt tiền Nhà thờ có 2 tầng
với 5 cổng. Ba cổng giữa dẫn vào tiền
sảnh. Cổng chính được trang trí bằng
đầu sư tử có 3 vòm với các tượng
từ thế kỷ XIII. Trước cửa sổ
tầng trên có bộ tứ mã nổi tiếng bằng
đồng mạ vàng. Mỗi một con ngựa cao 1,6m và
nặng 875kg, chúng đã có từ thế kỷ thứ IV.
Đây là bộ tứ mã duy nhất còn lại của
thời Cổ đại. Đầu tiên bộ tứ
mã được dựng trên
Khải hoàn môn của Hoàng đế Nêrôn ở Rôma. Sau
đó Hoàng đế Constantinô đem chúng về Constantinople.
Enrico Dandolo đem từ Constantinople về lại Venise
như chiến lợi phẩm trong cuộc Thập tự
chinh lần thứ tư. Năm 1798, Hoàng đế Napoléon đem
chúng về Paris và trưng bày trong Viện bảo tàng Louvre.
Năm 1815 chúng lại được trả về Venise.
Nhà thờ được chia
làm 3 gian theo phong cách Byzantine. Có một gian tiền sảnh
với các bức tranh khảm đá năm 1220-1290 mô tả
các cảnh trong Kinh thánh Cựu ước. Trong số các
phẩm nổi tiếng có tác phẩm Pala d'oro là màn che phía
sau của bàn thờ chính từ thế kỷ X-XIV. Một
vài cột của Nhà thờ
(trong số tổng cộng 2.600 cột bằng đá
quý đủ loại khác nhau ) bên trong cũng như bên ngoài
có thể là cột của Đền thờ Salomon ngày
xưa. Những cột của Đền thờ chủ
yếu là để trang trí và là biểu tượng cho
quyền lực của Venise.
Bên trái cung thánh có hài cốt của Thánh
sử Maccô bổn mạng của thành phố Venise. Chính các
thương gia tại Venise mang hài cốt thánh nhân từ
thành Alexandria về đây.
Đền thờ đầu
tiên được được xây dựng từ năm
828-832.
Năm 976, nhà thờ bị
hỏa hoạn thiêu đốt và ngay trong năm đó
vị tổng trấn Venise là Pietro I Orseolo đã cho xây
dựng lại. Trải qua nhiều lần bị ngưng
trệ, việc xây dựng Đền thờ kéo dài mãi
đến năm 1094 mới hoàn thành.
Venise có liên hệ mật
thiết với đế quốc Byzantine (Đế
quốc La mã ở Phương Đông) nên kiến trúc
Đền thờ mang phong cách Byzantine cho đến thế
kỷ XIII. Mặt bằng Nhà thờ mang hình chữ
thập vuông (Thánh giá Hy lạp). Đến thế kỷ
XIV lại mang phong cách kiến trúc Gôtích.
Kiến trúc nhà thờ là
bước phát triển cuối cùng của nghệ
thuật kiến trúc của thời đầu Kitô giáo. Sau
đó nghệ thuật kiến trúc chia thành hai hướng:
kiến trúc Byzantine ở phương đông và kiến trúc
ở phương tây dẫn đến kiến trúc theo
phong cách Carolinge và Roman.
Trong nhà thờ có các bức
tranh khảm đá trên nền mạ vàng, với diện
tích tổng cộng 4.200m2 nên người ta
đặt biệt danh cho Nhà thờ này là “Nhà thờ vàng”.
Các bức tranh có niên hiệu từ thế kỷ XII và XIII.
a.
Thánh Maccô
Thánh Máccô sinh tại
Cyrene, thuộc Pentapolis, miền Tây nước Libya, Bắc
Phi. Cha mẹ ngài là người Do Thái. Ngài sinh sau Chúa Giêsu
khoảng trên dưới 10 năm. Tên cúng cơm của ngài
là Gioan Máccô: “Ông Phêrô hoàn hồn và nói: “Bây giờ tôi
biết thực sự là Chúa đã sai thiên sứ của
Người đến, và Người đã cứu tôi
thoát khỏi tay vua Hêrôđê, và khỏi mọi điều
dân Do Thái mong muốn tôi phải chịu. Ý thức được
như vậy, ông đi đến nhà bà Maria, mẹ của
ông Gioan, cũng gọi là Máccô; ở đó có khá đông
người đang tụ họp và cầu nguyện” (Cv
12,11-12); “Ông Banaba và ông Saolô, sau khi đã chu toàn công
việc phục vụ tại Giêrusalem thì trở về,
đem theo ông Gioan, cũng gọi là Mác-cô” (Cv
12:25); “Ông Banaba muốn đem theo cả ông Gioan
cũng gọi là Máccô” (Cv 15,37).
Cha của Thánh Máccô là
ông Aristopolos và mẹ là bà Maria, di trú tới Palestine không lâu
sau khi sinh ngài, vì Berber tấn công thành phố và chiếm tài
sản. Họ định cư tại Cana, miền Galilê,
không xa Giêrusalem. Thánh Phêrô kết hôn với một
người thân của Thánh Máccô. Vài năm sau, cha của
Thánh Máccô mất, Thánh Phêrô chăm sóc Thánh Máccô và coi như
con: “Hội Thánh ở Babylon, cũng được
chọn như anh em, và Máccô, con tôi, gửi lời chào anh em” (1
Pr 5,13). Thánh Phêrô nhận thấy Thánh Máccô có giáo dục
tốt, vì Thánh Máccô đã học luật và các tác phẩm
kinh điển.
Truyền thống
Giáo Hội nói rằng bà Maria, mẹ Thánh Máccô, là
người ngưỡng mộ Chúa Giêsu và theo Ngài đi
khắp nơi, Thánh Máccô là người phục vụ
tại các buổi lễ ở Cana, miền Galilê, khi Chúa
Giêsu biến nước thành rượu (x. Ga 2,1-11).
Thánh Máccô là một
trong 4 Thánh sử viết Phúc Âm (nguyên bản bằng
tiếng Hy Lạp). Ngài là người sáng lập Hội
Thánh ở Ai Cập hoặc ít ra là ở Alexandria. Ngài đến
Alexandria khoảng năm 48. Theo một số nguồn, Thánh
Phêrô rao giảng ở Babylon vào khoảng thời gian Thánh
Máccô ở Alexandria, nhưng ngài tập trung vào người
Do Thái ở Babylon (gần Memphis, Cairo ngày nay).
Thánh Máccô tử
đạo năm 68 khi giáo phái Serapis (thần Serapion-Abbis Hy
Lạp và Ai Cập) trói ngài vào đuôi ngựa và cho kéo lê
trên đường phố ở quận Bokalia, thuộc
Alexandria, suốt hai ngày khiến thi thể ngài tan nát.
Biểu tượng
của Thánh Máccô là Sư Tử. Tên ngài được
đặt cho một nhà thờ ở Alexandria. Thi hài ngài
được đưa về nhà thờ ở Cairo, và nay
được đặt tại Nhà thờ Thánh Máccô ở
Venice (x. CopticChurch.net). Chúng tôi vinh dự
được cầu nguyện trước phần
mộ của ngài.
Sau khi mua quà lưu niệm,
hướng dẫn viên dẫn đoàn đi thăm
đảo Venise. Như một cù lao ở Miền Tây sông
nước, các kênh rạch là đường giao thông. Các
lối đi cho du khách hẹp theo hình bàn cờ. Có nhiều
cây cầu nối các kênh rạch. Đẹp nhất là Cầu Rialto, một cây cầu cổ
nhất và là đường phân chia các quận San Marco và
San Polo.
b.
Cầu Rialto
Cầu
Rialto rộng 22,90m, cao 7,32m, dài 28,80m. Cầu được xây
dựng từ năm 1588 và hoàn thành năm 1591.
Cây cầu phao đầu tiên bắc ngang
qua con kênh được Nicolò Barattieri xây dựng vào năm
1181. Người ta gọi nó là Ponte della
Moneta.
Sự phát triển và tầm quan trọng
của chợ Rialto ở
bờ phía Đông làm gia tăng việc lưu thông trên cây
cầu nổi. Năm 1255 một cây cầu
gỗ thay thế nó. Cấu trúc cầu có hai
sườn nghiêng gặp nhau ở khúc trung tâm có thể nâng
lên được để cho phép các tàu bè qua lại. Sự nối kết với khu chợ dẫn
đến việc thay đổi tên cho cây cầu. Trong
tiền bán thế kỷ XV, hai dãy cửa hàng
được xây dọc theo hai bên
cầu.
Việc bảo trì cây
cầu gỗ là điều sống còn. Nó bị đốt cháy một phần
trong cuộc nổi dậy của Bajamonte Tiepolo vào
năm 1310. Năm 1444, nó bị sụp đổ
dưới sức nặng của một đám đông
đang coi cuộc diễu hành thuyền bè trên kênh Venise và nó
lại sụp đổ một lần nữa vào năm
1524.
Ý tưởng xây dựng
lại cây cầu bằng đá đã được
đề xuất lần đầu vào năm 1503. Một vài dự án
đã được xem xét vào những thập niên sau
đó. Năm 1551, trong số các đề
nghị, chính quyền yêu cầu làm mới lại cây
cầu Rialto. Một số kiến trúc sư danh
tiếng như Jacopo Sansovino, Palladio và Vignola đã
đưa ra các bản vẽ, tất cả đều liên
quan đến phương pháp xây dựng cổ
điển với một vài vòng cung bị đánh giá là
không phù hợp với địa thế. Michelangelo được
coi như là người thiết kế cây cầu.
Cây cầu đá hiện nay được Antonio da Ponte thiết
kế với một khẩu độ đơn,
cuối cùng được hoàn thành vào năm 1591. Nó tương tự như cây cầu gỗ
trước đó. Hai
đường dốc dẫn đến một mái hiên trung tâm. Ở mỗi bên của mái hiên là một dãy các
cửa tiệm. Kỹ thuật
của cây cầu được coi như là táo bạo và
kiến trúc sư Vincenzo Scamozzi dự
đoán nó sẽ bị sụp đổ trong tương
lai. Cây cầu đã thách đố
những phê bình đối với nó để rồi nó
trở thành một trong những biểu tượng kiến
trúc của Venise.
Chụp những tấm
hình lưu niệm bên cây cầu lịch sử này. Tạm biệt Venise, chúng tôi đi Milan với đường dài
hơn 300km.
Milan có
Đại Thánh Đường Chính Toà, có thánh Ambrôsiô và là nơi thánh Augustinô được rửa tội. Chúng tôi yêu
thích Thành phố đặc biệt này
với đội bóng đá nổi tiếng: A.C. Milan và F.C.
Internazionale Milano.
III. MILAN
3.
NHÀ THỜ CHÍNH TÒA MILAN
Đại
Thánh Đường Milan có một kỷ lục xây dựng là hơn
5 thế kỷ để xây dựng và hoàn tất theo phong cách Gôtích. Đây là Nhà thờ lớn thứ tư trên
thế giới.
Nhà thờ được
bắt đầu xây dựng 1386 và mãi đến 1965 mới
hoàn thành. Chiều dài Nhà thờ 157m,
chiều ngang 92m, chiều cao 45m, lòng giữa nhà thờ là
16,75m, chiều cao vòng ngoài là 65,5m, chiều cao xoắn
ốc là 106,5m
Nhà
thờ Chính tòa chiếm vị trí trung tâm nhất của
thành phố. Bố
cục của Thành phố Milan với các đường
phố phát xuất từ Nhà thờ hay bao quanh Nhà thờ Milan.
Ở khu vực này có Nhà
thờ Thánh Ambrosio được xây dựng vào thế
kỷ thứ V, tiếp giáp với một ngôi Nhà thờ
được xây thêm vào năm 1386.
Năm 1386,
Đức Tổng Giám Mục Antonio da Saluzzo bắt
đầu khởi công xây dựng Nhà thờ Chính tòa. Việc khởi công xây dựng trùng
khớp với việc nắm quyền lực ở Milan
của Gian Galeazzo Visconti là anh em họ của Đức
Tổng Giám Mục. Điều này có nghĩa như là
phần thưởng dành cho tầng lớp quý tộc và lao
động, là những người chịu đau khổ
dưới sự cai trị độc tài của
người tiền nhiệm là Barnabo. Trước khi
công việc xây dựng được bắt đầu,
ba tòa nhà chính bị phá hủy: dinh thự của
Đức Tổng Giám Mục, dinh thự của
đấng bản quyền và nhà rửa tội của
Thánh Stêphanô. Sự hứng khởi cho việc xây dựng
tòa nhà mới đã lan rộng trong dân chúng, cho nên Gian Galeazzo
cùng với người anh em họ của mình là vị
Tổng Giám mục đã quyên góp rộng rãi cho công việc
đang được tiến hành. Chương trình xây
dựng được điều hành một cách chặt
chẽ theo sự điều khiển của "Fabbrica
del Duomo", trong đó có 300 nhân viên do vị kỹ sư
trưởng là Simone da Orsenigo điều
động. Theo kế hoạch ban đầu Orsenigo xây
dựng ngôi Nhà thờ Chính tòa bằng gạch theo phong cách Lombard Gothic.
Galeazzo có tham vọng xây cất theo
xu hướng kiến trúc mới nhất của Châu
âu. Năm 1389, một kỹ sư
trưởng người Pháp, Nicolas de Bonaventure
được bổ nhiệm, ông đã thêm vào Nhà thờ
phong cách Gothic rực rỡ của Pháp, nhưng lại không
phải là nét đặc trưng của Italia. Ông quyết định cấu trúc tòa nhà bằng
gạch được lót đá cẩm thạch. Galeazzo
cho Fabbrica del Duomo sử dụng
độc quyền đá cẩm thạch
từ quặng mỏ Candoglia và được
miễn thuế. Mười năm sau, một kiến
trúc sư người Pháp, Jean Mignot, được
gọi đến từ Paris để đánh giá và
cải tiến các công việc đã được
thực hiện, như người thợ xây cần
kỹ thuật mới hỗ trợ để nâng
những phiến đá lên một độ cao chưa
từng thấy. Mignot tuyên bố mọi công
trình đã thực hiệncó nguy cơ bị hủy
hoại. Trong những năm sau
dự đoán của Mignot không đúng sự thật.
Dù sao nó cũng thúc đẩy các kỹ sư
của Galeazzo cải tiến phương tiện và kỹ
thuật của mình. Công việc
được tiến hành nhanh chóng. Năm
1402 Gian Galeazzo qua đời, thì gần một nửa Nhà
thờ được hoàn tất. Tuy nhiên công
trình xây dựng hầu như bị đình trệ hoàn toàn
cho đến 1480 do thiếu tiền và thiếu ý
tưởng kiến trúc: công trình đáng chú ý nhất
của thời kỳ này là phần mộ của Marco
Carelli và của Đức Giáo Hoàng Martinô V (1424) và
những cánh cửa sổ ở vòm cung sau cung thánh năm
1470 miêu tả chân dung Thánh sử Gioan của Cristoforo de’ Mottis, và thánh Eligius và thánh Gioan Damasceno, của Niccolo da
Varallo. Năm 1452, Francesco Sforza đã hoàn thành
lòng giữa và lối đi hai bên thành sáu gian.
Năm 1500 -1510, Ludovico Sforza đã hoàn thành mái vòm
hình bát giác và trang trí phần bên trong với bốn hàng
cột mỗi hàng gồm 15 tượng hình các thánh, các tiên
tri, và các sự kiện trong Kinh Thánh. Phần
ngoài của mái vòm không có trang trí trừ tháp hình chóp Amadeo xây dựng năm
1507-1510. Đây là một kiệt tác thời
Phục hưng, tuy nhiên nó vẫn hài hòa với dáng vẻ
Gothic tổng quát chung của Nhà thờ.
Sau đó, dưới thời thống trị
của Tây Ban Nha, ngôi Nhà thờ mới chứng minh cho
thấy đã có thể sử dụng, cho dù phần bên
trong một số lớn vẫn chưa hoàn thành, và một
số gian Nhà nguyện ở lòng giữa và cánh ngang vẫn
còn bỏ dở. Năm 1552, Giacomo Antegnati
được ủy thác xây dựng một phần
lớn cho phía bắc của ca đoàn, và Giuseppe Meda cung
cấp bốn trong số mười sáu câu lơn
để trang trí khu vực bàn thờ, chương trình
đã được Federico Borromeo hoàn tất. Năm
1562, tượng thánh Tông đồ Batôlômêô của Marco
d’Agrate và chân đèn Trivulziođê nổi tiếng được thêm vào.
Sau khi làm Tổng Giám Mục thành Milan, Thánh Carolo Borromeo đã can
thiệp để bổ nhiệm Pellegrino Pellegrini làm
kiến trúc sư trưởng vào năm 1571.
Thánh Borromeo và Pellegrini đã nỗ lực đem
lại một diện mạo Phục hưng mới cho Nhà
thờ Chính tòa nhấn mạnh đến tính chất Roman
và Italia và loại bỏ phong cách Gothic lúc ấy bị
người ta coi như tính chất ngoại
lai. Phần lớn mặt tiền vẫn còn dang
dở, Pellegrini đã thiết kế theo
phong cách Roman, với hàng cột, bia tưởng niệm và
một vòm cung lớn. Khi thiết kế của Pellegrini
được tiết lộ, một cuộc thi thiết
kế cho mặt tiền nhà thờ được loan báo,
có khoảng gần một tá bản thiết kế trúng
tuyển trong đó có bản của Antonio Barca.
Bản thiết kế này không bao giờ
được thực hiện, nhưng phần trang trí bên
trong vẫn tiếp tục: năm 1575-1585, gian cung thánh
được xây dựng lại, trong khi những bàn
thờ mới và giếng rửa tội được
thêm vào ở gian giữa Nhà thờ.
Dàn hợp xướng cho ca đoàn bằng
gỗ được Francesco Brambilla xây
bàn thờ chính năm 1614.
Năm 1577 Thánh Borromeo thánh hiến toàn bộ
Đền thờ như một ngôi Nhà thờ mới, phân
biệt hẳn với Nhà thờ cũ Đức Bà Cả
và Santa Tecla
Vào đầu thế kỷ
XVII, Federico Borromeo đã có nền tảng cho mặt
tiền mới của Nhà thờ dưới sự
hướng dẫn của Francesco Maria Richini và Fabio
Mangone. Công việc
được tiếp tục cho đến 1638 với
việc xây dựng 5 cổng và 2 cửa sổ giữa
ở bên trên cổng chính. Tuy nhiên và năm 1649, vị
tân kiến trúc sư trưởng Carlo Buzzi đã đưa
vào một cuộc cách mạng nổi bật: mặt
tiền trở lại phong cách Gothic nguyên thủy, kèm theo những họa tiết hoàn chỉnh
với những hàng cột bổ tường hình chữ
nhật theo phong cách Gothic và hai tháp chuông khổng
lồ. Còn có những thiết kế khác
của Filippo Juvarra (1733) và Luigi Vanvitelli (1745),
nhưng lại không được ứng dụng. Năm 1682, mặt tiền của Nhà thờ
Đức Bà Cả bị phá hủy và việc lợp mái
cho Nhà thờ Chính tòa được hoàn thành.
Năm 1762, một trong những nét chính
của Nhà thờ là ngọn tháp Madonnina vươn lên
độ cao chóng mặt là 108,5m. Francesco Croce đã thiết
kế ngọn tháp này và trang trí ở đỉnh tháp
tượng Madonnina bằng hợp chất crôm nhiều
màu. Việc thiết kế của
Giuseppe Perego thích hợp với dáng nguyên thủy của Nhà
thờ Chính tòa. Với khí hậu
ẩm ướt và sương mù của Milan, khi tượng Madonnina
được nhìn thấy từ xa thì người Milan coi thời tiết ngày hôm
đó là tốt.
Ngày 20 tháng 5 năm
1805, Napoleon Bonaparte với ý đồ làm vua Italia nên
đã ra lệnh phải hoàn thành mặt tiền. Với sự phấn
khởi, ông đảm bảo ngân khố của Pháp sẽ
lo mọi phí tổn. Cuối cùng, vỏn
vẹn chỉ có 7 năm, mặt tiền Nhà thờ
được hoàn thành. Vị kiến trúc sư
mới Felice Soave, phần lớn vẫn theo
dự án của Buzzi, ông thêm vào các cửa sổ phía trên
những nét tân Gothic như là một hình thức tạ
ơn. Một bức tượng của
Napoleon được đặt ở trên đỉnh
của một trong các ngọn tháp. Napoleon
đã đội vương miện làm vua Italia tại Nhà
thờ Chính tòa này.
Những chi tiết cuối cùng của Nhà thờ
Chính tòa chỉ được hoàn tất vào thế kỷ
20: cuối cùng cổng Nhà thờ được khánh thành
vào ngày 06 tháng 1 năm 1965. Người ta
coi ngày này như là sự chấm dứt tiến trình xây
dựng trước đây. Mặt
tiền chính của Nhà thờ Chính tòa đã được
nâng cấp từ năm 2003 đến đầu năm
2009. Tháng 2 năm 2009 mặt tiền nhà
thờ mang màu sắc đá cẩm thạch Candoglia.
Trong lòng Nhà thờ có
bốn lối đi hai bên và có một cánh
ngang, còn có dàn đồng ca và vòm
cung phía sau bàn thờ. Chiều cao của lòng
giữa Nhà thờ khoảng 45 mét.
Lòng giữa Nhà thờ với năm gian dọc
rộng, khoảng 40 cột, những cột ở lòng
giữa Nhà thờ cao khoảng 24,5m, và những cửa
sổ ở vòm cung sau cung thánh với kích thức 20,7m x
8,5m. Nhà thờ được xây dựng
bằng gạch với mặt tiền bằng đá
cẩm thạch.
Hiện nay, phía sau Nhà thờ đang
còn sữa chữa. Trưa mưa to và lạnh buốt
nhưng tôi phải tìm nhiều góc cạnh để
chụp những tấm hình ưng ý. Sau khi tham quan và
cầu nguyện bên trong Thánh đường, chúng tôi tiếp
tục đi thăm Vương cung Thánh đường
Thánh Ambrôsiô.
Đi ngang qua tượng đài Leonardo Da Vinci,
chiêm ngưỡng một thiên tài của thế giới. Leonardo sinh ngày 15 tháng 4 năm 1452 tại
Anchiano, Italia. Ông là
một họa sĩ, nhà điêu
khắc, kiến trúc sư, nhạc sĩ, bác sĩ, kỹ sư,
nhà giải phẫu, nhà sáng tạo và triết học tự
nhiên.Ông được coi là một thiên tài toàn năng
người Ý. Tên gọi của thành phố Vinci là nơi
sinh của ông, nằm trong lãnh thổ của tỉnh Firenze, cách thành phố Firenze 30 km
về phía Tây gần Empoli, cũng là họ của ông.
Người ta gọi ngắn gọn là Leonardo vì "da Vinci" có nghĩa là
"đến từ Vinci",
không phải là họ thật của ông. Tên khai sinh là Leonardo di ser Piero da Vinci có
nghĩa là "Leonardo, con
của Ser Piero, đến từ Vinci". Ông nổi
tiếng với những bức hoạ cổ điển
của mình như bức Mona Lisa,
bức Bữa
Tiệc Ly.
4.
VƯƠNG CUNG THÁNH
ĐƯỜNG THÁNH AMBRÔSIÔ
(Nơi lưu
giữ thánh tích của thánh nhân)
a. Thánh Ambrôsiô, Giám mục Tiến sĩ
Hội Thánh
(339–397)
Thánh Ambrôsiô sinh năm 339 tại Trêve, trong một gia
đình công chức cao cấp thuộc đế quốc
Rôma. Tới lúc trưởng thành, với trí khôn minh mẫn,
tâm hồn ngay thẳng và tài hùng biện, ngài
được ông hoàng Robus đề cử giữ
chức tổng đốc hai miền Liguria và Êmilia phía
bắc nước Ý.
Vào
năm 33 tuổi, Thánh Ambrôsiô đã có tất cả mọi
sự. Một sự nghiệp đầy hứa hẹn là
luật sư, một vị thế quan trọng trong chính
trường là tổng trấn Milan. Ngoài ra ngài còn là
người bạn với hoàng đế, cùng với
một gia tài kếch sù.
Và
rồi vị giám mục của Milan từ trần. Vào lúc
ấy, khoảng năm 374, nhiều tà giáo muốn tiêu
diệt Giáo Hội. Vị cố giám mục Milan từng
hậu thuẫn cho lạc giáo Arian chống lại giáo
huấn về thiên tính của Ðức Kitô. Vậy ai sẽ
là người kế vị, người Công Giáo hay
người của phe Arian? Cả hai phe đụng
độ nhau ở vương cung thánh đường và
một cuộc bạo động xảy ra.
Duy
trì trật tự công cộng là trách nhiệm của quan
tổng trấn Ambrôsiô, nên ngài vội vã chạy đến
nhà thờ và hùng hồn lên tiếng, không ủng hộ phe
phái nào cả, nhưng ủng hộ sự hoà bình. Ngài xin
dân chúng hãy bình tĩnh, kềm chế sự nóng nẩy và
chọn lựa giám mục mà không cần phải xô xát.
Trong
khi ngài đang nói, bỗng dưng có người hô to,
"Bầu Ambrôsiô làm giám mục!" Thế là tất
cả mọi người đều đồng thanh,
"Ambrôsiô là giám mục!".
Các
vị giám mục khác của tỉnh thì quá vui mừng khi
được phủi tay trước vấn đề
khó khăn này. Nhưng Ambrôsiô không dễ hy sinh một
sự nghiệp đầy hứa hẹn để
chấp nhận công việc của một giám mục
đầy nguy hiểm, một công việc ảnh
hưởng đến tính mạng trong thời lạc
giáo. Bởi thế Ambrôsiô bỏ trốn. Khi ngài cầu
viện đến hoàng đế để thay đổi
quyết định nói trên với lý do là ngài chưa
rửa tội, vị hoàng đế lại tuyên bố
rằng ông rất vui mừng khi chọn được
quan tổng trấn thích hợp với chức giám mục.
Ambrôsiô trốn tránh trong nhà của một nghị sĩ,
nhưng ông này đã đem nộp Ambrôsiô khi ông biết
quyết định của hoàng đế.
Không
còn biết trốn vào đâu nữa, Ambrôsiô ra đầu
hàng. Vì ngài bị ép buộc phải chấp nhận chức
giám mục, nên sẽ không ai ngạc nhiên nếu ngài vẫn
tiếp tục lối sống cũ, như trước
khi được tấn phong. Tuy nhiên, ngay sau đó Ambrôsiô
đã phân phát tài sản cho người nghèo và tự
đặt mình dưới sự chỉ dẫn của
Thánh Simplician để học thần học và Kinh Thánh.
Phe
Arian tưởng rằng Ambrôsiô sẽ là giám mục
"của họ" vì ngài từng là một viên chức
của triều đình, và nhiều người trong chính
quyền đều thuộc phe Arian. Nhưng Ambrôsiô đã
dùng sở trường của một luật sư và tài
hùng biện để chống lại phe Arian bất
cứ nơi nào, dù ở nhà thờ, triều đình,
thượng viện, hay ngay cả trong hoàng tộc. Tính
ngoan cố của ngài khi không chấp nhận chức giám
mục lúc đầu, nay lại trở thành vũ khí trong
cuộc chiến chống lại lạc giáo và giúp ngài
quyết tâm theo đuổi sự thánh thiện.
Khi
người Goth xâm chiếm đế quốc và bắt
nhiều người làm con tin, Ðức Giám Mục Ambrôsiô
đã phải dùng chính tài sản của mình để
chuộc. Ngài nói sự bác ái có giá trị nhất là
chuộc kẻ tù đầy. Ngay cả các bình vàng của
Giáo Hội, ngài cũng đem bán để lấy tiền
chuộc. Ngài nói, "Cứu vớt các linh hồn cho Chúa
thì tốt hơn là duy trì tài sản. Ðức Kitô đã sai các
tông đồ đi rao giảng mà không có vàng bạc, và
cũng không cần vàng bạc để thành lập Giáo
Hội của Người. Giáo Hội làm chủ vàng
bạc, không phải để tích trữ, nhưng
để phân phối và giúp đỡ những
người kém may mắn."
"Chắc
chắn Chúa sẽ hỏi chúng ta: 'Tại sao con lại
để quá nhiều người nghèo đói? Vì con có vàng
bạc, con phải cấp dưỡng cho họ'& Có
thể nào chúng ta trả lời rằng: 'Vì con không muốn
để đền thờ của Chúa không
được trang hoàng.' Nhưng những gì không mua
được bởi vàng bạc thì cũng không có giá
trị bởi vàng bạc. Phương cách tốt nhất
để sử dụng vàng bạc của Ðấng Cứu
Thế và hãy cứu vớt những người lâm
cảnh hoạn nạn."
Ðức
Giám Mục Ambrôsiô luôn luôn lưu tâm đến người
nghèo hơn là quyền lực. Ngài thường khiển
trách người giầu khi lãng quên người nghèo: "Thiên
Chúa tạo nên vũ trụ trong một phương cách
để tất cả những gì là của chung sẽ
đem lại no ấm cho con người, và trái đất
là sở hữu chung của tất cả mọi
người. Tại sao bạn lại từ chối
một người cũng có quyền đối với
thiên nhiên như bạn? Của cải bạn cho
người ăn xin không phải của chính bạn, nhưng
đó là phần của người ấy mà bạn
phải hoàn trả cho họ. Trái đất thuộc
về tất cả mọi người. Bởi thế,
bạn đang trả nợ mà lại nghĩ đang ban
bố một ơn huệ."
Khi
hoàng đế từ trần, Hoàng Hậu Justina, một
người phe Arian, trở thành nhiếp chính cho
đứa con trai bốn tuổi. Maximus, một cựu
sĩ quan Rôma, biết rằng cái chết của hoàng
đế sẽ làm suy yếu đế quốc nên dự
định tấn công. Justina xin Ambrôsiô thương
lượng với tên này. Mặc dù Justina là một kẻ
thù, Ambrôsiô đã lên đường thi hành nhiệm vụ
và đã thuyết phục được Maxima ngừng xâm
lăng.
Thay
vì biết ơn Ambrôsiô, Hoàng Hậu Justina lại yêu cầu
Ðức Giám Mục Ambrôsiô trao lại vương cung thánh
đường cho phe Arian. Thánh nhân trả lời rằng
ngài không bao giờ nhường đền thờ của
Thiên Chúa.
Dân
chúng đứng về phe Ðức Giám Mục Ambrôsiô. Ngài
thừa khả năng để thực hiện cuộc
đảo chánh lật đổ Justina. Nhưng ngài
thận trọng không dùng bất cứ lời nói hay hành
động nào để khích động dân chúng.
Khi
một số người Công Giáo bắt giữ một
linh mục phe Arian và kết án tử hình, Ðức Giám
Mục Ambrôsiô đã nhân danh hòa bình xin tha cho vị linh
mục này và nói rằng: Thiên Chúa sẽ phải đau
khổ khi thấy cảnh máu chảy thịt rơi.
Ðức Ambrôsiô gửi các linh mục và phó tế của ngài
đến giải thoát cho vị linh mục Arian này.
Sau
đó Hoàng Hậu Justina thuyết phục con mình ban bố
luật lệ để hợp pháp hóa lạc giáo Arian và
cấm người Công Giáo không được chống
đối người Arian. Không ai có thể đệ
trình một thỉnh cầu chống với một tổ
chức tôn giáo đang có thế lực.
Vào
Chúa Nhật Lễ Lá, trong bài giảng, Ðức Giám Mục
Ambrôsiô tuyên bố không nhường lại các nhà thờ.
Cả giáo đoàn, vì lo sợ cho tính mạng, đã phòng
thủ trong nhà thờ với vị chủ chăn là Ðức
Giám Mục Ambrôsiô. Quân triều đình bao vây chung quanh
ngăn chặn mọi đường tiếp tế,
để dân chúng vì đói mà phải ra đầu hàng. Cho
đến ngày Chúa Nhật Phục Sinh, tất cả
mọi người vẫn kiên trì phòng thủ.
Khi
chạm trán với lực lượng bao vây, Ðức Giám
Mục Ambrôsiô nói, "Vũ khí của tôi chỉ là
nước mắt. Tôi không muốn từ bỏ nơi
đây, nhưng tôi không chống cự bằng võ
lực."
Ðể
trấn an dân chúng đang khiếp sợ, Ðức Giám
Mục Ambrôsiô dạy họ hát thánh vịnh do chính ngài sáng
tác. Ngài chia cộng đoàn làm hai bên để đối đáp.
Ðây là lần đầu tiên việc hát đáp ca
được ghi nhận trong lịch sử Giáo Hội.
Tiếng
nhạc và lời kinh vượt ra ngoài bốn bức
tường của thánh đường và làm rúng
động tâm hồn các binh lính. Không bao lâu, chính họ
cũng cất tiếng phụ họa. Sự vây hãm
chấm dứt.
Vì
biết quân triều đình đang tập trung vào việc
chống đối người Công Giáo, Maximus một
lần nữa lại quyết định tấn công Rôma.
Justina và hoàng tộc thật kinh hãi. Không biết trông vào ai,
sau cùng họ lại quay về với người mà
họ từng tấn công và đe dọa. Họ xin Ðức
Giám Mục Ambrôsiô đến gặp Maximus và ngăn
chặn sự tấn công.
Trong
một hành động tha thứ có thể nói lạ lùng,
Ðức Giám Mục Ambrôsiô lại thi hành nhiệm vụ cho
kẻ thù. Khi Maximus từ chối thoả hiệp, ngài
vội vã trở về để chuẩn bị. Justina và
hoàng tộc trốn sang Hy Lạp, trong khi Ðức Giám
Mục Ambrôsiô ở lại chống đỡ. May mắn
thay, vị hoàng đế đông phương là Theodosius
đã can thiệp và đánh bại Maximus. Tuy nhiên, sau đó
Theodosius đã chiếm quyền kiểm soát toàn thể
đế quốc Rôma. Theodosius là người Công Giáo và sau
này trở thành người bạn chí thiết của
Ðức Giám Mục Ambrôsiô.
Ðức
Giám Mục Ambrôsiô từ trần ngày 4-4-397. Lễ kính
được đặt vào ngày 7 tháng 12 là ngày ngài
"bị" tấn phong giám mục.
Trong chức vụ chủ chăn, thánh
Ambrôsiô đã mạnh dạn bênh vực chân lý và kỷ
luật của Giáo Hội chống lại Ariô và các bè
rối khác. Qua lời giảng thuyết cũng như các
văn thư, ngài đưa nhiều người lạc
giáo trở về làm con cái Giáo Hội, trong số đó
phải kể đến thánh Augustinô.Ảnh
hưởng của thánh Ambrôsiô đối với thánh
Augustinô rất nhiều. Cuốn Tự Thuật (Confessions)
của thánh Augustinô cho thấy điều đó. Do đó mà
thánh Monica yêu quý thánh Ambrôsiô như thiên thần của Chúa
đã hoán cải con trai bà. Chính thánh Ambrôsiô đã đặt
tay trên vai thánh Augustinô khi đến giếng rửa tội
để gia nhập Giáo hội Công giáo.
b.Thánh Augustinô, Giám mục Tiến sĩ
Hội Thánh.
Thánh Augustinô
sinh ngày 13 tháng 11 năm 354, tại Tagaste, hiện giờ là
thành phố Souk-Ahras thuộc nước Algeria, nằm phía
Bắc Phi Châu. Cha ngài là thị trưởng Patricius, thuộc
gia tộc quyền quý và mẹ là Monica, một tín hữu
công giáo, đạo hạnh, gương mẫu, và giàu nhân
đức. Mẹ Monica đã kiên trì cầu nguyện
xin Chúa hướng dẫn và mở lòng người chồng
và người con yêu quý của mình là Augustinô tìm về nguồn
Chân Thiện Mỹ. Ơn Chúa rất huyền nhiệm và
linh động nơi cuộc đời Augustinô. Khi còn
bé, ngài vốn là một cậu bé tinh nghịch, thông minh xuất
chúng, nên cậu là niềm hãnh diện của ông
Patricius. Sau mười sáu năm sống với gia
đình tại Tagaste, ngài đã được cha mẹ cho
đi học về văn khoa hùng biện tại Carthage vào
cuối năm 370.Thành phố Carthage là một thành đô phồn
thịnh, những toà nhà nguy nga lộng lẫy, thổ dân ở
đây đa số là đa thần, và lối sống cao sa
dễ đưa con người vào con đường sa
hoa trụy lạc. Cuộc sống ở đô thành
đã thu hút biết bao bạn trẻ và Augustinô không ngoại
lệ.Tuy con đường học vấn trổi vượt
hơn các bạn học, nhưng đời sống tâm linh
và luân lý bị suy sụp. Năm 19 tuổi, ngài đã trở
thành giáo sư triết học. Sự thành công trong học vấn
đã tạo cho ngài một chỗ đứng vững vàng
trong xã hội. Những kiến thức thâm thúy và sự
khôn ngoan của triết gia Cicero đã gợi trong tâm thức
Augustinô nỗi khát vọng tìm kiếm sự khôn ngoan chân thật. Khi
nghe giáo chủ của giáo phái Manikê hùng biện về giáo
thuyết của họ, ngài bị thu hút và đã gia nhập
giáo phái này.Với tài hùng biện sẵn có, ngài đã thuyết
phục được bao nhiêu người gia nhập vào
giáo phái đó.
Sau những
năm theo học tại Carthage, năm 373 ngài trở về
quê Tagaste, nhưng mẹ ngài không thể đón nhận một
người thuộc bè phái Manikê dù đó là con của mình.
Nhưng tình yêu đã khiến Monica tha thứ và hết lời
khuyên con trở về chính lộ. Thời gian ở
Tagaste, ngài đã mở lớp dạy môn khoa Ngữ Văn
để kiếm tiền sinh sống. Suốt 9 năm
làm tín đồ Manikê, đến năm 383, khi tròn 29 tuổi,
ngài ao ước sang Ý để lập nghiệp, nhưng
ý định này không được mẹ tác thành. Tuy
nhiên, ngài vẫn trốn mẹ mà đi sang thánh đô Rôma,
nước Ý. Khi đến nơi, ngài đã lâm trọng
bệnh và sau khi hồi phục ngài đã mở lớp dạy
chuyên khoa văn hùng biện. Học sinh ở đây không trả
lệ phí nên ngài nản lòng và bỏ dạy. Cuối
cùng, ngài xin dạy tại đại học ở Milan.
Là một giáo sư dạy triết học, ngài say mê tìm
kiếm và đào sâu vào triết lý của Plato. Năm
384-387, là giai đoạn khủng hoảng niềm
tin. Giai đoạn khủng hoảng được chấm
dứt khi ngài nghe bài giảng thật huyền nhiệm của
thánh Giám mục Ambrôsiô. Phục Sinh năm 387, Augustinô
được Rửa tội tại Nhà thờ Milan. Ít
lâu sau, đang khi phải chiến đấu dữ dội
với những ham muốn của xác thịt, ngài đã
nghe như có tiếng thúc bách từ nội tâm là hãy cầm
sách Thánh lên để đọc. Ngài mở thư thánh
Phaolô gửi cho giáo đoàn Rôma: “Chúng
ta hãy ăn ở cho đứng đắn như người
đang sống giữa ban ngày: không chè chén say sưa, không
chơi bời dâm đãng, cũng không cãi cọ ghen
tương. Nhưng anh em hãy mặc lấy Chúa Giêsu
Kitô, và đừng chiều theo tính xác thịt mà thoả mãn
các dục vọng” (Rm 13,13-14). Niềm vui và sự
bình an khôn tả tràn ngập tâm hồn Augustinô và đã biến
đổi cuộc đời của ngài hoàn toàn.
Hè năm
387, Augustinô cùng với mẹ và các bạn đồng hành
đến cảng Ostia. Ít lâu sau, mẹ ngài qua đời
và được chôn cất tại đây. Năm 388,
ngài trở về Tagaste. Cùng với người bạn
Alypius, ngài đã thành lập đan viện để sống
chiêm niệm. Năm 391, ngài được phong chức
linh mục thành Hippo và ở đây cho đến chết.
Khi nhận ra Đức Kitô là nguồn
ơn cứu độ, ngài đã viết rất nhiều
sách để phi bác các lạc thuyết thời bấy giờ. Năm
395, ngài được phong làm phụ tá Đức Giám mục
thành Hippo. Sau khi Đức Giám mục Valerius thành Hippo
băng hà năm 396, thánh Augustinô lên kế vị.
Sau khi trở
lại, thánh Augustinô sống nhưng không còn phải là ngài sống
nữa, mà là Đức Kitô sống nơi ngài. Khi mọi
sự đã hoàn tất, Chúa đã gọi ngài một lần
nữa qua cơn bệnh trầm trọng và đã qua đời
ngày 28 tháng 8 năm 430 tại Hippo. Ngài đã được
phong thánh và nâng lên hàng Tiến sĩ Hội thánh vào năm
1303. Ngài đã để lại cho Giáo hội một
kho tàng tài liệu, tuy đã bị huỷ đi nhiều do
hoả hoạn tại Hippo, nhưng cũng còn lại 100 cuốn
sách, 240 lá thư, và 500 bài giảng.
c. Vương cung Thánh
đường Thánh Ambrôsiô.
Vương Cung Thánh
Đường Thánh đầu tiên đã được chính
Đức Giám mục Ambrôsiô cho khởi công xây dựng vào
năm 385 và được thánh hiến năm 386. Nhà
thờ này được xây dựng với quy mô lớn
trên một nghĩa trang, gần ngôi mộ tử
đạo của thánh Victor. Hai vị tử đạo địa
phương có Thánh tích nơi bàn thờ chính, và Thánh Ambrôsiô
được mai táng cận bên sau khi ngài qua đời vào
ngày 4 tháng 4 năm 397.
Vương cung Thánh
đường nguyên thủy được khai quật
nằm bên dưới ngôi Nhà thờ hiện hữu.
Nền của thánh đường còn sót lại cho thấy
có hai lối đi bên cạnh, một nền bằng đá
cẩm thạch và vòm cung hình bán nguyệt sau cung thánh, và
bốn cột lọng tán ở trên bàn thờ.
Vương Cung Thánh
Đường theo phong cách Roman thế kỷ XI. Đây là
tòa nhà còn sót lại cho đến ngày hôm nay. Những tài
liệu lịch sử còn thiếu nên không biết
được ngày chính xác, nhưng các học giả tin
rằng có lẽ nó được bắt đầu
khoảng năm 1080 dựa trên lịch sử kiến trúc
và kỹ thuật ở vùng Lombardy.
Tài liệu cho thấy gian
giữa ngày xưa vẫn còn được sử dụng
vào năm 1067 và lòng giữa mới được sử
dụng vào năm 1093. Vương cung Thánh đường
được hoàn thành khoảng 1128.
Phía bên ngoài:
Vương cung Thánh
đường có vẻ bên ngoài không thông dụng, có
một khoảng trống lớn đặc biệt
với hai ngọn tháp có độ cao khác nhau.
Mặt tiền phía tây có 6
cổng vòm cung có mái che. Ngọn tháp phía nam gọi là tháp
Đan sĩ có từ thế kỷ thứ X. Còn phía bắc
là ngọn tháp Kinh sĩ đẹp hơn xây từ năm
1123 và hoàn thành năm 1181. Cả các vị Đan sĩ
lẫn Kinh sĩ luôn luôn ở gần đó để
phục vụ Vương cung Thánh đường. Mỗi
bên đều có Tu viện riêng của mình.
Lòng giữa Thánh đường
Bên trong Vương cung Thánh
đường đầy những chi tiết nghệ
thuật thời Trung cổ: có nhiều nét hoa văn ở
đầu cột theo phong cách Roman, một cỗ áo quan vào
thế kỷ thứ IV chạm khắc với những câu
truyện trong Kinh Thánh. Một bàn thờ bằng bạc vào
thế kỷ 9, và một phương du trên bàn thờ vào
thế kỷ thứ 10. Gần lối vào phía bên phải
của lòng giữa là "cột
rắn": một con rắn bằng đồng
thời Byzantine vào thế kỷ thứ X được
đặt trên đỉnh một cột ngắn. Đối
diện bên kia có “cột
thập giá”.
Giảng đài:
Về phía bắc của gian giữa
là giảng đài rộng bằng đá cẩm thạch,
được làm vào giữa 1130 và 1143 và được
xây dựng lại sau khi mái nhà sụp đổ vào năm
1196. Đây là một loại bục giảng đầu
tiên được các vị Đan sĩ và Kinh sĩ
đọc Tin Mừng. Nó được xây dựng trên
đỉnh của cỗ áo quan Stilichone vào thế kỷ
thứ IV.
Những bức phù điêu
theo phong cách Lombard Roman trang trí cho giảng đài dựa theo
những tác phẩm của Thánh Ambrôsiô tập trung về
các đề tài tội lỗi và ơn cứu độ.
Phía bắc trình bày một bữa tiệc nói về Bữa
Tiệc Ly hay bữa ăn huynh đệ được
người Kitô hữu cử hành vào mỗi Chủ
nhật. Hình ở góc tây nam có lẽ trình bày cảnh Daniel
trong hang sư tử. Các phù điêu ở vòm cung trên đầu
cột mô tả cảnh Ba vua diện kiến Hêrôđê và
thờ lạy Chúa Hài Đồng, cảnh Adam và Eva lao
động, và hai con chim uống từ nước từ
chén thánh tượng trưng cho sự sống đời
đời.
Ở phía đối diện
với gian giữa, có hai tác phẩm điêu khắc
bằng đồng đỏ mạ vàng có lẽ
được gắn liền với giảng đài đầu
tiên và niên đại của chúng vào đầu thế
kỷ thứ VIII và được coi là ví dụ về
luyện kim thời Trung cổ. Tác phẩm miêu tả con
phượng hoàng, tượng trưng cho Thánh sử Gioan,
thiên thần tượng trung cho Thánh sử Matthêu. Hai
biểu tượng của hai thánh sử kia thì đã
bị mất.
Áo
quan Stililchone (thế
kỷ thứ IV)
Được coi như một kho báu, là một công trình nghệ thuật
tuyệt vời vào thời đầu của Kitô giáo. Tác phẩm được điêu khắc vào
năm 385 vào thời thánh Ambrôsiô.
Có lẽ phần mộ này do
một sĩ quan quân đội cao cấp ra lệnh xây, ông
này cùng với bà vợ nằm ở phía bắc của
phần mộ. Nó mang tên Stilichone, một vị
tướng phục vụ hoàng đế La mã Honorius và
đã qua đời năm 408.
Những tác phẩm điêu
khắc trên cỗ quan tài mang một chất lượng
tuyệt vời, được một nghệ sĩ Roma
thực hiện. Phía nam của quan tài đối diện
với cổng giữa nhà thờ mô tả cảnh Traditio
Legis, trong đó Chúa Giêsu đưa chìa khóa Nước
trời cho Thánh Phêrô. Phía bên kia diễn tả cánh Chúa Giêsu
dạy dỗ các tông đồ, còn các phía ngắn hơn
diễn tả những cảnh trong Kinh thánh Cựu
Ước.
Bàn thờ vàng
vào thế kỷ IX và lọng tán vào thế kỷ X
Bàn thờ vàng nằm ngay mặt tiền
ở lòng giữa được làm vào năm 835. Nó mô
tả cuộc sống của Chúa Kitô trên một lá bằng
vàng ở mặt tiền và cuộc sống của Thánh Ambrôsiô
được mạ bạc ở mặt sau. Bàn thờ
được che phủ bởi một mái vòm với
bốn cột cổ xưa và được trang trí
với các phù điêu bằng vữa vào thế kỷ X.
Một mặt đối diện với gian giữa Nhà
thờ mô tả cảnh Chúa Giêsu trao Sách Luật cho Thánh
Phaolô ở bên trái và chìa khóa Nước trời cho Thánh
Phêrô.
Phần trung tâm của vòng
cung khảm đá sau cung thánh mang phong cách Byzantine sau này và có
từ năm 1200. Những cảnh ở hai bên có từ
đầu thế kỷ IX vào thời Carolingian. Những
điều này nối kết Thánh Ambrosiô và thành phố Milan
với thánh Martinô và thành Tours ở Pháp. Cả hai vị Giám
mục này là những người chống lại lạc
giáo Arianisme.
Chúng tôi đi thăm thi hài
của 3 vị Thánh phía sau cung thánh. Thánh Ambrôsiô,Thánh Gervasius
và Thánh Protasius. Bộ xương của ngài
được lồng kính với một lớp phủ
bảo vệ và mặc phẩm phục Giám mục
đầy đủ với mũ Giám mục màu trắng.
Những vị thánh chôn cùng
với ngài là các vị tử đạo vào thế kỷ III
được thánh Ambrosiô cải táng và đặt ở
bàn thờ của Vương cung Thánh đường.
Phần mộ
được xây cất vào cuối thế kỷ X như
là một phần đại tu phần cuối phía đông
của Vương cung Thánh đường. Một bình
đựng di cốt lớn bằng bạc những thánh
tích đó có niên hiệu năm 1897.
Ở phần cuối lối
đi bên cánh phía nam là Sacello di San Vittore, là một Nhà
nguyện mà nguồn gốc có trước Vương cung
Thánh đường đầu tiên. Lúc đó nó vẫn còn
là một nghĩa trang, đây một kiến trúc nhỏ
được xây dựng để kính Thánh Victor, một
vị tử đạo địa phương. Thánh
Ambrosiô đã làm mới lại ngôi Nhà thờ có mộ thánh
tử đạo và xây ngôi Vương cung Thánh đường
ngay bên cạnh. Ngôi Nhà nguyện này đã được
cải tạo một lần nữa vào năm 500.
Khi Vương cung Thánh
đường được xây lại trên một
bản thiết kế lớn hơn trong thế kỷ XI,
thì ngôi Nhà nguyện có mộ thánh tử đạo trở
thành một phần của Vương cung Thánh
đường. Nó được bao phủ bởi
những bức tranh khảm đá mạ vàng từ thế
kỷ V, trong đó có bức chân dung của Thánh Ambrosiô.
Bức chân dung này được thực hiện không lâu
sau khi ngài qua đời vào năm 397, vì thế nó phản
ánh diện mạo đương thời của ngài.
Rời Nhà thờ Thánh Ambrôsiô
chúng tôi đến thăm Nhà thờ Santa Maria Delle Grazie, nơi có bức tranh Bữa Tiệc Ly gốc của
Leonardo da Vinci.
|