Người kế vị Thánh Phê-rô Nguyện đường Sistina là phòng bầu phiếu kín đáo nhất và sang trọng nhất thế giới hôm 13/03/2013 lại vừa mang lại một kết quả bầu cử không có các màn vận động, tranh giành, và tố cáo chuyện xấu của nhau. Ở vòng bầu chọn thứ 5, trên hai phần ba của tổng số 115 hồng y cử tri có mặt đã quyết định chọn Hồng y Jorge Mario Bergoglio của xứ Argentina làm vị giáo hoàng thứ 266. Giáo hoàng đầu tiên được chính Chúa Jesus chọn trong các tông đồ – để làm người đứng đầu tuyên bố tính thiên sai của Chúa và làm nền móng cho Giáo hội – là một người chài lưới tên Simon, được Chúa cải danh thành Phê-rô, theo tường thuật của Mát-thêô, ở đoạn 16, câu 18 và 19: “Còn Thầy, Thầy bảo cho anh biết: anh là Phê-rô, nghĩa là tảng đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi. Thầy sẽ trao cho anh chìa khóa Nước Trời: dưới đất, anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc; dưới đất anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy”. Khi Hoàng đế Nero tiến hành bách hại giáo dân Ki-tô giáo vào tháng 8/64, theo lời truyền tụng, ông Phê-rô định chuồn khỏi La Mã để tìm nơi lánh mặt. Vừa tới con đường Appia, gần cửa Capena, ông đã gặp Chúa hiện ra vai vác thập giá. Phêrô hỏi: “Lạy Chúa, Chúa đi đâu?" (Quo Vadis, Domine?). Chúa đáp: “Eo Romam crucifigi iterum" (Thầy vào thành La Mã để chịu đóng đinh thêm lần nữa). Hiểu ra ẩn ý của thầy mình, Phê-rô quay trở lại vào thành rồi sau bị giam ở ngục Mamertina. Khi bị đưa tới đồi Vatican để xử tử, Phê-rô nói ông không xứng đáng được đóng đinh như thầy mình, và xin được treo ngược đầu xuống đất. Nơi cùng trời cuối đất Các nhà lãnh đạo của Hội thánh Thiên Chúa giáo đã chọn vị giáo hoàng mới của họ hôm thứ Tư – trong một ngày thừa lễ nghi cung cách quen thuộc nhưng lạ lẫm về truyền thống – để đặt đàn chiên gồm 1.2 tỉ tín đồ trên khắp thế giới dưới sự điều khiển của một chủ chăn là một giáo sĩ thuộc Dòng Tên và mở đầu hai kỷ lục tiên khởi trong quá trình lịch sử 2.000 năm của đạo giáo. Hồng y Jorge Mario Bergoglio, 76 tuổi, người xứ Á Căn Đình, cựu giám mục địa phận Buenos Aires bất ngờ xuất hiện trên bao lơn Điện Thánh Phê-rô và được giới thiệu là Giáo hoàng Francis, trước một đám đông người hành hương chen chúc bên dưới quảng trường đồng thanh reo vang bằng tiếng nước Ý, “Viva il Papa!” (Giáo hoàng Muôn năm!), khi ông ngõ lời kêu gọi tình huynh đệ trong giáo hội toàn cầu. Lúc 7 giờ 06 phút tối, khói trắng bắt đầu tỏa ra từ ống khói trên mái nhà nguyện Sistina, giữa tiếng hò reo vui mừng của ngót 100.000 tín hữu và khách hành hương thập phương đang kiên nhẫn đứng chờ từ nhiều giờ đồng hồ trước đó dưới cơn mưa lất phất. Màu khói – do hóa chất tổng hợp kali, clor, ôxy, đường sữa lactoza trộn với nhựa thông dung môi phát ra màu trắng thật rõ ràng – nhưng để xác tín thêm, giàn chuông của Đền thờ thánh Phêrô được gióng lên liên hồi, quả quyết báo hiệu hội thánh vừa có giáo hoàng mới. Các hệ thống truyền thanh và truyền hình trên thế giới tạm ngưng chương trình đang phát của họ để loan đi tin sốt dẻo này. Được tin, hàng chục ngàn tín hữu và dân chúng có mặt trong thành phố La Mã tìm mọi cách dồn về Quảng trường thánh Phêrô để thấy mặt vị tân giáo hoàng. Họ đã nhảy mừng, reo hò, ca hát, phất cờ quốc gia của mình. Theo thể thức mật nghị, sau khi một hồng y hội đủ 77 phiếu trở lên trong tổng số 115 phiếu để đắc cử, vị kỳ cựu nhất trong số các hồng y cử tri là Hồng y Giovanni Battista Re, 79 tuổi, tiến đến trước mặt Hồng y Jorge Mario Bergoglio và hỏi: “Ngài có chấp nhận việc tiến cử ngài làm Giáo Hoàng chiếu theo giáo luật không?”. Được Hồng y Bergoglio xác nhận, Hồng y Re hỏi tiếp: “Vậy ngài muốn được gọi bằng tên gì?” Hồng y đắc cử cho biết ông chọn tên là Francis (Phanxicô). Tiếp theo, Đức Ông Guido Marini, trưởng ban nghi lễ phụng vụ của giáo hoàng, cùng với một công chứng viên tông tòa và 2 viên chức phụ tá khác trong tư cách nhân chứng, đã hoàn tất văn kiện chính thức xác nhận kết quả cuộc bầu cử và tên hiệu của tân giáo hoàng. 65 phút sau khi bắt đầu có khói trắng, Hồng y Trợ tế Jean Louis Tauran, Trưởng Hội đồng Đối thoại Liên tôn của Đức Giáo hoàng, long trọng đọc câu tuyên bố: “Annuntio vobis gaudium magnum: Habemus Papam!” (Tôi xin loan báo tới mọi người một tin vui cực điểm: chúng ta đã có Đức Giáo Hoàng!). Tiếp theo, vị giáo hoàng mới xuất hiện trong phẩm pục màu trắng, ứng khẩu chào mọi người bằng ngôn ngữ bình dân pha hài hước của mình: “Anh chị em thân mến, chào anh chị em buổi tối. Như anh chị em đã rõ, phận sự của Mật nghị Hồng y là chọn cho giáo phận La Mã một vị giám mục. Chừng như các anh em hồng y đoàn của tôi đã phải lặn lội tới cùng trời cuối đất để tìm bằng được người ấy. Và bây giờ chúng ta đang ở đây. Tôi cám ơn sự tiếp đón của anh chị em. Cảm ơn cộng đồng giáo phận La Mã dành cho giám mục của mình. Cám ơn tất cả anh chị em.” Thông thường, một giáo hoàng ban phép lành cho giáo dân, và người tín đồ nhận lời chúc phúc của giáo hoàng như một ân huệ lớn. Lần nầy, vị tân giáo hoàng đã làm ngược lại. Ông yêu cầu đám đông “Tôi muốn được anh chị em chúc lành cho tôi”, trước khi ông chúc lành cho họ, và ngõ những lời căn dặn đầu tiên: “Giờ đây chúng ta, giám mục và tín hữu, bắt đầu hành trình này – hành trình của Giáo hội La Mã là Giáo hội chủ trì toàn thể các giáo hội khác – trong đức bác ái, một hành trình huynh đệ và yêu thương, tín nhiệm giữa chúng ta. Chúng ta hãy luôn cầu nguyện cho chính chúng ta, cầu nguyện cho nhau. Chúng ta hãy cầu nguyện cho toàn thế giới để có một tình huynh đệ đậm đà hơn. Tôi cầu mong anh chị em làm thế nào để hành trình này của Giáo hội mà chúng ta khởi hành hôm nay, và cho người phụ tá tôi là Đức hồng y giám quản đang có mặt ở đây, được nhiều thành quả cho việc rao giảng Tin Mừng tại thành phố xinh đẹp này.” Rồi ông kết luận: “Chúc anh chị em ngủ ngon, và có một giấc nghỉ ngơi tốt lành”. Đường về La Mã Nhà thần học kiêm thi sĩ Pháp Alain de Lille hồi thế kỷ thứ 12 đã để lại câu nói bất tử, “Mille viae ducunt homines per saecula Romam” (Một ngàn con đường đều dẫn mọi người về La Mã) về sau đã trở thành câu ngạn ngữ thông dụng “Mọi con đường đều tới La Mã”, nhưng đường về La Mã của Giáo hoàng Francis là một trường hợp biệt lệ.
Hồng y Jorge Mario Bergoglio thuộc Dòng Tên, chào đời ngày 17/12/1936 tại Buenos Aires thủ đô của Argentina, thành phố được mệnh danh là “Kinh thành Paris của phương Nam”, chịu ảnh hưởng mạnh nền văn hóa Âu châu, nằm trên bờ phía nam của con sông Río de la Plata. Không những là thành phố thịnh vượng nhất châu Mỹ Latinh với đông đảo cư dân có trình độ học vấn cấp đại học và thuộc thành phần trung lưu, Buenos Aires còn là một trong những thành phố của lục địa Nam Mỹ nổi tiếng với các kiến trúc, cuộc sống về đêm và các hoạt động văn hóa. Xuất thân từ một gia đình có năm người con của một công nhân hỏa xa gốc Ý di dân, hết thời gian theo học tại chủng viện Villa Devoto, ông gia nhập Dòng Tên vào năm 1958, rồi chuyển sang môn thần học sau khi tốt nghiệp thạc sĩ hóa học tại Viện Đại học Buenos Aires. Ông cũng đã tốt nghiệp cử nhân triết học tại Đại học Maximo San José ở San Miguel năm 1963, trước khi trở thành giảng sư văn chương và tâm lý tại Học viện Đức Mẹ Vô Nhiễm ở thành phố Santa Fe, và Học viện Salvador ở Buenos Aires. Bergoglio hoàn thành nghiên cứu thần học năm 1967. Hai năm sau, ông được Tổng Giám mục José Ramón Castellano truyền chức linh mục ngày 13/12/1969. Từ đó, ông trở thành giáo sư triết học và thần học tại chủng viện San Miguel ở thủ đô Buenos Aires. Tiếp theo, Dòng Tên đã bầu ông làm Giám tỉnh của Dòng tại đất nước Argentina từ 1973 đến 1979. Lúc nầy, ông chỉ mới 36 tuổi, lại phải đương đầu với nhiều khó khăn suốt 6 năm dưới thời độc tài quân sự của đất nước Argentina khi đó. Dưới sự hà khắc của chính phủ, bạo lực chính trị đã gia tăng cộng với biến cố trở về của Perón từ Tây Ban Nha, để xảy ra vụ thảm sát ở Phi trường Ezeiza. Tình hình càng rối ren hơn khi Perón chết vào tháng 7/1974 để lại người vợ thứ 3 của ông là bà Isabel, đang giữ chức phó tổng thống, lên kế vị ông để trở thành tổng thống. Mặt trước, nữ tổng thống Isabel đã thỏa hiệp với các phe phái đang căm hận chủ nghĩa Perón, mặt sau, bà chìu lòn hầu hết các cố vấn phát xít của Perón. Chính sự xung đột giữa 2 phe cực đoan cánh hữu và cánh tả do bà nuôi dưỡng đã dẫn đến tình trạng hỗn loạn chính trị và tài chính, nối tiếp bằng cuộc đảo chính tháng 3/1976 làm bà tuột tay cái ghế tổng thống. Trong giai đoạn lịch sử nầy, bắt cóc và giết người xảy ra ở thủ đô hầu như hàng tuần. Các cuộc đàn áp, thủ tiêu trong “cuộc chiến bẩn thỉu” làm hàng ngàn người chống đối mất tích. Qua năm 1980, Bergoglio quay lại chủng viện San Miguel, nơi ông đã được đào tạo chủng sinh trước năm 1963, để làm giám đốc tu viện nầy trong suốt 13 năm. Năm 1986, ông qua Đức để hoàn thành luận án tiến sĩ. Quay về lại Argentina, ông trở thành linh mục chuyên giải tội và linh hướng tại Córdoba. Năm 1992, Giáo hoàng Jean Paul II bổ nhiệm ông làm giám mục phụ tá tổng giáo phận Buenos Aires và 6 năm sau ông trở thành tổng giám mục chính tòa của giáo phận này. Năm 2001, ông được thăng hồng y. Trong cương vị tổng giám mục giáo phận Buenos Aires, ông nổi tiếng gần gũi dân chúng và sống đời sống khiêm nhường, cũng như được đánh giá là một giáo sĩ luôn trung thành với nguồn gốc xuất thân lao động của mình. Ông thường đi xe bus, viếng thăm người nghèo khó, sống trong một căn chung cư nhỏ và đơn sơ thay vì sử dụng biệt thự hay cung điện, rồi cặm cụi tự nấu ăn cho mình. Là giám mục áo đỏ, nhưng ông được nhiều người dân thủ đô thân mật gọi bằng cái tên thân ái là “Cha Jorge”. Hồng y Bergoglio mở mang các giáo xứ mới, chỉnh đốn các văn phòng hành chánh của địa phận, hướng dẫn các sáng kiến bảo vệ sự sống, và bắt đầu các cơ cấu mục vụ mới, như Ủy ban về Những người Ly dị là một. Trong kỳ Thượng Hội đồng Giám mục Thế giới Lần thứ 10 vào tháng 10/2001, ông được chọn làm Tổng tường trình viên. Từ 2005 đến 2011, ông là Chủ tịch Hội đồng Giám mục Argentina, song song với việc viết các sách về linh đạo và suy niệm, hay lên tiếng chống nạn phá thai và xu hướng hôn nhân đồng phái tính. Chọn Hồng y Jorge Mario Bergoglio làm giáo hoàng, hồng y đoàn đặt Hội thánh Thiên Chúa giáo dưới sự lãnh đạo của một người ít được biết tới trong cương vị một nhà giáo dục hay một trí thức như vị giáo hoàng tiền nhiệm, nhưng là một người mục tử khiêm tốn và hài hòa để chăn dắt đàn chiên. Bầu cho một người vốn tránh né các dấu hiệu bề ngoài kiêu kỳ về quyền thế của một hồng y chỉ có một kinh nghiệm rất hạn chế về sinh hoạt hành lang Vatican cũng đồng nghĩa với việc tạo một tiếng vang vào thời điểm mà đạo công giáo đang trải qua những mất mát về chữ tín cũng như giảm sút tín đồ ở nhiều phần trên trái đất. Đưa ra một vị giáo chủ đầu tiên xuất xứ từ một quốc gia châu Mỹ còn là một biến cố lịch sử thứ nhì của Hội thánh Thiên Chúa giáo chỉ trong vòng một tháng: Giáo hoàng Benedict thoái vị hôm 28/02 là trường hợp hi hữu sau 598 năm, trong lúc các giáo hoàng thường tại vị với quyền năng tuyệt đối của mình cho đến giờ chết. Nhưng chọn lựa của Mật nghị Hồng y được chào đón trên khắp lục địa châu Mỹ. Giám mục Thomas Wenski của giáo phận Miami, Florida phát biểu: “Giọng nói của Ngài là một yếu tố lớn cho Hoa Kỳ và cho châu Mỹ Latinh. Tất cả chúng ta, những người sống trên Mỹ châu, có quyền tự do rất nhiều lần hơn những người sống ở châu Âu và trong những cộng đồng xã hội cứng ngắc với truyền thống”. Ngoài ra, việc bầu chọn ngài còn đặt viên đá tảng đầu tiên cho Dòng Tên, một dòng tu Thiên Chúa giáo chọn sự thanh bần, nghèo khó làm tôn chỉ sống, truyền đạo, và phụng sự tha nhân. Dòng Tên Ngay sau khi được hồng y đoàn bầu lên, Hồng y Bergoglio lựa chọn danh xưng là Giáo hoàng Francis. Đây là lần đầu tiên tên thánh Francis được chọn và chọn lựa nầy được xem như một quyết định phi truyền thống nhằm vinh danh một vị thánh nổi tiếng là một người có cuộc sống đơn giản. Mỗi vị tân giáo hoàng vừa đắc cử thường phải đối diện với những quyết định cần ngã ngũ ngay trong suy nghĩ của mình, trong đó có vấn đề chọn tên gọi. Sau năm 533, lúc vị giáo hoàng mới thời ấy chọn tên John II (Gioan Đệ Nhị), các giáo hoàng tiếp theo giữ thông lệ chọn tên một vị thánh để vinh danh. Các tên thánh được lặp lại nhiều nhất: John (21 lần), Gregory (16), Benedict (15), Clement (14), Innocent (13), Leo (13), Pius (12), Stephen (9), Boniface (8), Urban (8), Alexander (7) và Paul (6). Lần nầy, quyết định của tân giáo hoàng đã trở thành việc chọn tên một vị thánh mới, kể từ khi Giáo hoàng Lando mở màn cách đây đúng 1.100 năm, vào năm 913. Gustavo Boquin, người phát ngôn cũ của Hồng y Bergoglio cho biết: “Ông ấy là một thầy tu gần gũi, thân thiện với mọi người. Chọn Thánh Francis của thành Assisi, người có công cải cách giáo hội và là một nhà tu khiêm nhường, nghèo khó và khát khao đối thoại, giáo hoàng muốn nhắn một thông điệp.” Khi còn phục vụ tại Argentina, ông được ghi nhận là một nhà tư tưởng chủ đạo, còn Dòng Tên của ông, một dòng tu đặc biệt của Hội thánh La Mã mang tên Chúa Jesus, được ca ngợi là một trong những dòng tu tiến bộ, đặc biệt trong lãnh vực giáo dục. Bergoglio đã đấu tranh để ngăn Dòng Tên tham gia vào phong trào thần học giải phóng – một phong trào cuốn hút nhiều linh mục Thiên Chúa giáo trên khắp châu Mỹ vào các hoạt động chính trị đối lập với chính phủ. Tuy nhiên, ông đưa ra một chủ trương rất đơn giản: “Duy trì quan điểm phi chính trị của Giáo hội”. Dòng Tên, trong tiếng Latinh là Societas Iesu, dịch nghĩa tiếng Việt là Đoàn Giêsu; hay Hội dòng Giêsu nhưng người Việt Nam vốn kiêng cử những tên húy của vua và chúa, nên gọi tắt là “Tên”, tức là tên của Chúa Jesus. Là một dòng tu lớn do Thánh Ignatius của thành Loyola, người xứ Tây ban Nha, thành lập vào ngày 15/08/1534. Năm 1537, Giáo hoàng Paul III cho phép tu sĩ dòng nầy được thụ phong linh mục, và ba năm sau, cũng chính giáo hoàng nầy chuẩn thuận cho họ được phép lập tu hội riêng. Thánh Ignatius có một quá trình quân đội, nên lúc bấy giờ ông gọi dòng tu của ông là “Đại đội Jesus”, hoặc “Đơn vị Thủy quân Lục chiến của Chúa”. Dòng tu nầy phát triển mạnh và nhanh trong các công tác truyền giáo và giáo dục đến châu Á, châu Phi và châu Mỹ. Hiện nay họ có mặt ở trong 112 quốc gia trên thế giới, với 19.850 tu sĩ. Linh mục Bề trên Tổng quyền của Dòng hiện là cha Adolfo Nicolás, và khẩu hiệu của dòng là “Ad maiorem Dei gloriam” (Sẵn sàng làm việc để vinh danh Thiên Chúa). Vào dòng, các tu sinh khấn hứa tuân giữ ba đức tính khó nghèo, khiết tịnh và vâng phục bề trên. Là tu viện trưởng một dòng tu tân lập, Ignatius phái các linh mục của dòng tới khắp nơi trên toàn cõi châu Âu để mở trường học, viện đại học và các tu viện. Vào năm 1556 khi Ignatius qua đời, Dòng tên đã lập được 74 trường đại học trên ba lục địa. Với sứ mạng truyền đạo làm tôn chỉ nòng cốt, Dòng Tên được nhân loại biết đến qua công tác mở rộng đạo Chúa. Tên Thánh Francis Xavier mà giáo hoàng chọn là một tu sĩ của dòng đã có công mang Thiên Chúa giáo vào Á châu. Các tu sĩ Dòng Tên tin tưởng rằng việc canh tân giáo hội Thiên Chúa phải được bắt đầu bằng cách canh tân bản thân mỗi cá nhân. Cho đến nay, chủ trương bất di dịch của dòng vẫn là lời thề hứa tuân giữ sự khó nghèo, khiết tịnh và vâng phục – trong đó có sự vâng phục Đức Giáo hoàng. Với trọng tâm công tác tông đồ nhắm vào lãnh vực giáo dục, danh xưng Dòng Tên đồng nghĩa với một số viện đại học nổi tiếng trên thế giới. Ở Mỹ, vào năm 1789 khi George Washington hành trình từ nhà mình ở Mount Vernon về thành phố New York để nhậm chức tổng thống, các cha Dòng Tên cũng khánh thành học viện Georgetown đầu tiên của mình ở thủ đô Washington ngày nay. Hiện dòng có 28 viện đại học trên lãnh thổ Hoa Kỳ cùng với 189 cơ sở giáo dục khác khắp thế giới. Dòng Tên được cho là dòng tu có quan điểm tư do tư tưởng, vì họ dám dạy các triết lý về tôn giáo khác trong trường của mình, cũng như chủ trương giáo dục là quyền bình đẳng của mọi con người. Vì chủ trương phóng khoáng ấy, nhiều người gọi các linh mục Dòng Tên là cha đẻ của xã hội chủ nghĩa. Chính Giáo hoàng John Paul II đã cảnh cáo một số tu sĩ Dòng Tên của Châu Mỹ Latinh vì khuynh hướng nghiêng về thần học giải phóng của họ, đặc biệt là vấn đề người nghèo dưới sự áp bức của nhà giàu, kiểu như lập thuyết của Fidel Castro, người môn sinh của Dòng Tên suốt 12 năm, để rồi quay lại tống khứ các ân sư của mình ra khỏi nước vào năm 1961. Linh mục Dòng Tên gần gũi nhất với dân tộc Việt Nam không ai khác hơn là Alexandre de Rhodes. 91 năm sau khi dòng được thành lập ở Paris, vào đầu năm 1625, cha Alexandre cùng bốn linh mục khác của dòng và một tín hữu người Nhật Bản cập bến Hội An, ở phía nam Đà Nẵng. Lên bờ, ông bắt đầu học tiếng Việt và chọn tên Việt là Đắc-Lộ; thầy dạy tiếng Việt cho ông là một cậu bé khoảng 10, 12 tuổi. Ông ghi lại: “Chỉ trong vòng 3 tuần lễ, cậu bé đã dạy tôi học biết tất cả các cung giọng khác nhau của tiếng Việt và cách thức phát âm của từng chữ. Không một kiến thức gì về ngôn ngữ châu Âu, thế mà cũng chỉ trong 3 tuần lễ này, cậu đã có thể hiểu được những gì tôi muốn diễn tả và muốn nói với cậu. Đồng thời, cậu học đọc, học viết tiếng Latinh và đã có thể giúp lễ.” Chọn Việt Nam làm quê hương thứ hai của mình, Alexandre de Rhodes chấp nhận cuộc sống ba chìm bảy nổi sáu lênh đênh. Trong vòng 20 năm, ông bị triều đình trục xuất những 6 lần, nhưng vẫn bền bĩ kiên trì tìm cơ hội quay lại Việt Nam đủ cả 6 chuyến. Năm 1645, ông bị Chúa Nguyễn vĩnh viễn trục xuất khỏi Việt Nam. Sáu năm sau khi ông rời Việt Nam, cuốn Từ Điển Việt-Bồ-La (Dictionarium Annamiticum Lusitanum et Latinum) của ông được ấn hành như sự ra đời của chữ quốc ngữ. Ngoài ra, cuốn Phép giảng Tám ngày (Catechismus) của ông viết bằng văn xuôi, ký tự cách phát âm của tiếng Việt ta hồi thế kỷ 17. Như thế, chẳng có gì quá đáng khi nói rằng “Cho người Việt các mẫu tự Latinh, Alexandre de Rhodes đã đưa nước Việt Nam đi trước thời gian đến 3 thế kỷ”. Từ năm 1957 đến 1975, các cha Dòng Tên điều hành Giáo hoàng Học viện Piô X ở Đà Lạt, góp phần đào tạo các linh mục Việt Nam. Tại Sài Gòn, các giáo sĩ Dòng Tên coi sóc trung tâm Đắc Lộ. Năm 1979, các giáo sĩ của trung tâm bị bắt, trung tâm Đắc Lộ bị nhà nước tịch thu. Từ 1980 tới 2004, trung tâm Đắc Lộ trở thành tòa soạn báo Tuổi Trẻ. Các cha Dòng Tên hoạt động trong ngành mô phạm ngay từ khi họ mới hình thành, hiện đang đảm nhiệm phần giáo dục cho 2.5 triệu sinh viên tại 3.730 cơ sở giảng huấn của họ trên khắp hoàn cầu. Linh mục Kevin O’Brien, Phó giám đốc Ban Sứ mạng và Điều hành của Đại học Georgetown cho biết hiện dòng đang nắm trong tay hệ thống giáo dục tôn giáo lớn nhất thế giới. Tuy thế, trọng tâm của dòng vẫn là việc thực hành tinh thần Ignatius – một sự chắt lọc giữa kinh kệ và suy ngẫm để giúp con người sâu đậm hơn trong tương giao với thượng đế. Trưởng thành từ một thanh niên ăn chơi trác táng cho đến khi một chân bị nghiền nát bởi một trái đạn pháo binh trong một trận đánh, Ignatius đã phải dẫn xác vào quân y viện nằm chờ hồi phục, nơi ông chỉ được đọc các sách báo nào có thể lưu hành trong nhà thương. Ông đành nghiền đi ngẫm lại từng chữ trong cuốn kinh thánh và những sách hạnh các thánh. Cuối cùng, ông khám phá ra rằng ông thấy tâm tư mình được bình an hơn khi nghĩ về Chúa Jesus, thay vì chỉ nghĩ về đàn bà con gái như từ xưa nay. Xuất viện, ông bỏ ra đúng một tháng, tự giam mình trong một hang động, để nghĩ suy về quan hệ giữa mình với thượng đế. Là một dòng tu lớn nhất của Thiên Chúa giáo, các cha Dòng Tên đã có một tầm ảnh hưởng không nhỏ đối với tín đồ, nhưng không cứ thế để mặc nhiên trở thành tiền đề cho sứ mạng cải cách rộng rãi của Giáo hoàng Francis. Các cha trong dòng chủ trương dòng được lập ra để phục vụ giáo hội, và họ không bao giờ ly khai khỏi hội thánh. Trước đây, Hồng y Bergoglio đã chống đối chủ nghĩa bè đảng, đã chỉ trích dự luật của chính phủ Argentina để hợp thức hóa việc phá thai dưới một số hoàn cảnh nào đó. Dù với quá khứ độc đáo của mình, và dù với tư cách là giáo hoàng đầu tiên của châu Mỹ – những ai mơ mộng rằng Giáo hoàng Francis sẽ thoát ly khỏi cương vị được định đặt của mình trong vấn đề hôn nhân đồng phái hay vấn đề phá thai, rồi sẽ ôm lấy thất vọng ê chề. Nhưng thật lý thú để chúng ta quan sát xem quá khứ của Giáo hoàng Francis định nghĩa thế nào về tương lai của ông. Dù cho là đã đến lúc cũng nên có một giáo hoàng là tu sĩ Dòng Tên, linh mục O’Brien ý thức rằng Mật nghị Hồng y đã chọn Hồng y Bergoglio vì con người của ông, chứ không vì dòng tu mà ông đã vào để tu tỉnh. Dù gì đi nữa, thiên hướng của Giáo hoàng Francis trong khuôn khổ của một giáo sĩ Dòng Tên không khỏi ảnh hưởng tới cuộc sống cá nhân ông, từ cá tính đơn sơ đến cung cách làm việc nặng tính giáo dục của mình. Cha Joseph Fessio lý luận: “Thánh Ignatius khi lập dòng đã không muốn giáo sĩ của mình trở thành giám mục, vì Ngài không muốn thấy họ vướng víu với bã lợi danh và quyền bính vẫn gắn chặt với chức phận. Ngài muốn môn sinh của mình làm tông đồ trong vai vế những vị linh mục.” Nay linh mục Bergoglio đã đi quá xa, đã lên tới tột cùng trong hàng ngũ của hội thánh, việc đưa ra một kết luận khi một triều đại giáo hoàng mới khởi sự là hành động thiếu thận trọng nhất mà chúng ta có thể làm. Ngày làm việc đầu tiên Cái mà không ai có thế đoan quyết, là liệu tân giáo hoàng, một giáo sĩ Nam Mỹ chẳng có kinh nghiệm gì về trung tâm quyền lực của quốc gia Vatican, có đủ thao lược không để đối phó với một số vấn nạn đang chất chồng trong bộ máy hành chánh Curia của đất nước mà từ lâu nay vốn được xem là những yếu tố làm vô hiệu hóa việc mở mang Nước Trời. Vụ tai tiếng gần đây là biến cố rò rĩ thông tin mật của Tòa Thánh tới giới truyền thông Ý, cho thấy có sự nứt rạn giữa các viên chức cao cấp của Điện Vatican. Sự giằng co trong nội tình Tòa Thánh về vấn đề quản trị ngân hàng Vatican, cùng những nỗ lực để đạt tiêu chuẩn quốc tế trong những khía cạnh như luật chống rửa tiền, đã làm bật gốc các mối chia rẻ trong guồng máy hành chánh của giáo hội. Ở một chừng mực sâu rộng hơn, hội thánh bị vùi dập vì các thử thách kể cả việc gia tăng tín đồ Hồi giáo hay nhiều hàng ghế giáo đường công giáo đang bị bỏ trống ở khắp châu Âu. Đó là chưa kể vị giáo chủ còn phải xắn tay áo để giải quyết những dư âm cứ bị nhắc đi nhắc lại về việc tai tiếng của hội thánh trong vấn đề lạm dụng tình dục do các ông cha nhắm vào đám thiếu niên – những vụ việc xảy ra đã từ một thập niên hay lâu hơn nữa, nhưng vừa mới lộ ra ánh sáng qua các vụ tiết lộ động trời trong triều đại Giáo hoàng Benedict XVI. Một số lời chỉ trích bảo rằng vụ tai tiếng tình dục đã không được giải quyết thấu đáo vì vị giáo hoàng trước đây cũng như giáo triều La Mã ngưng ngang việc yêu cầu các giám mục quanh thế giới phải tường trình các hành vi sách nhiễu tình dục cho chính quyền địa phương. Có lẽ một người nào đó tương đối mang màu sắc ngoại nhân, một kẻ vốn sống đời sống tinh thần giản dị, và có khuynh hướng hoài nghi về thẩm quyền rất có thể là thần dược của căn bệnh. Trong bối cảnh đó, một sử gia của giáo hội, giáo sư Alberto Melloni của viện đại học Modena và Reggio Emilia nhận định thêm: “Trong một hội thánh bị các vụ tai tiếng tài chánh quất tới tấp, một nhân vật nào đó có cuộc sống vừa khó nghèo vừa khổ hạnh hẳn phải là cơ sở tốt để trở thành giáo hoàng.” Giáo hoàng Francis hẳn sẽ theo lộ trình truyền thống của giáo hội bằng việc giảng dạy của giáo hoàng tiền nhiệm. Nhưng đồng thời, ông cũng gần gũi với Truyền thông và Giải phóng, một phong trào của tín hữu công giáo đã đóng một vai trò truyền bá phúc âm quan trọng tại châu Âu và châu Mỹ Latinh. Mặc dù Mật nghị Hồng y tiến hành bầu cử trong tuyệt đối bí mật, bên ngoài vẫn có những lời đồn đoán như đoan chắc rằng mật nghị sẽ kết thúc sớm, vì không như sau cái chết của một giáo hoàng, các giáo sĩ áo đỏ còn phải lo ma chay. Việc thoái vị của Giáo hoàng Benedict được công khai hóa sớm cộng với thời gian nhiều tuần lễ trước ngày việc từ nhiệm có hiệu lực, đã giúp các hồng y kịp có sẵn quyết định trong đầu. Mặc dù Hồng y Bergoglio không thuộc các ứng viên nổi bật nhất, ông là một ứng viên với số phiếu chỉ sau Hồng y Joseph Ratzinger trong cuộc tuyển chọn lần trước vào hôm 19/04/2005. Lần nầy, việc bầu một hồng y của châu Mỹ Latinh đánh dấu việc giáo hội nghiêng về khu vực nầy trên thế giới. Một thế kỷ trước, 65% tín đồ Thiên Chúa giáo sống ở châu Âu, nhưng tới năm 2010, con số ấy chỉ còn 24%. Trong khi ấy, số giáo dân châu Mỹ Latinh tăng 39% – nhiều hơn cả châu Âu và Hoa Kỳ cọng chung lại, mặc dù trên tổng thể, giáo hội Thiên Chúa giáo châu Mỹ Latinh tự nó suy thoái. Trong khu vực địa lý nầy, trước đây 50 năm, có trên 90% công dân là tín đồ Thiên Chúa giáo, ngày nay, ở nhiều quốc gia Trung Mỹ, số người theo đạo còn không tới phân nửa. Giám mục Andrew Chesnut cho rằng “không có khu vực nào quan trọng cho tương lai giáo hội công giáo bằng Mỹ châu Latinh. Thực tế cho thấy tương lai giáo hội nằm ở nam bán cầu”. Nếu nhận xét nầy hợp lý, thì giáo hoàng mới là người hiểu rõ lục địa Nam Mỹ hơn bất cứ hồng y nào, và không chỉ thấu hiểu sự nghèo khó và tình cảnh bị loại trừ, mà ông còn tinh tường cả sự trù phú màu mở của đất đai. Trong khi đó thì người con của tổ quốc Argentina tại thánh quốc La Mã vẫn sống cuộc sống chừng mực của một tu sĩ Dòng Tên. Buổi sáng ngày thứ nhất trong cương vị giáo hoàng, ông đã dậy sớm để tới cầu nguyện trước tượng Đức Mẹ ở Nhà nguyện Santa Maria Maggiore. Tiếp theo, thay vì dùng xe riêng của giáo hoàng, ông nhờ tài xế một chiếc xe thường của giáo triều Vatican đưa mình tới khách sạn nơi ông ngụ lại trước khi được bầu làm giáo hoàng, để trả tiền phòng và ký nhận hành lý. Khi đi, ông chỉ mặc áo trắng, không đội nón đỏ và chỉ mang đôi giày đen xoàng, cộng với chiến đồng hồ tay hạng bèo quen thuộc. Cùng đi với giáo hoàng là Đức Ông Georg Gaenswein, thư ký riêng của giáo hoàng hưu trí, người phụ trách sắp xếp và quán xuyến việc ăn ở của đương kim giáo hoàng. Lẽ ra Giáo hoàng Francis chỉ việc nhờ bất cứ người nào đi ký nhận hành lý và trả tiền phòng, nhưng ông quyết định tự làm lấy, đúng cung cách mà một linh mục Dòng Tên được đào tạo và đã khấn hứa. Hồng y Jean-Pierre Ricard, tổng giám mục giáo phận Bordeaux bên Pháp, kể lại sau khi ra mắt giáo dân với tư cách giáo hoàng, ông đã cùng các hồng y khác trở về phòng mình trong khu mật viện. Sau đó khi rời phòng để tới Nhà nguyện Nữ Thánh Marta, các viên chức Vatican hướng dẫn các hồng y sang các cầu thang phụ, dành riêng thang máy cho một mình giáo hoàng. Thấy vậy, Giáo hoàng Francis không chịu, “Không không, không, không, không. Tất cả chúng ta đều vào”. Thế là các hồng y đành bước vào với giáo hoàng, để xuống bằng thang máy. Xuống tới sân, khi các hồng y lên xe bus, và chiếc xe của giáo hoàng đang chờ ông, giáo hoàng lại phản đối lần nữa: “Không, tôi cùng đi chung xe với các Ngài. Nguyện xin Chúa tha cái lỗi nầy cho quí vị”. Thế là ông trèo vào xe bus để đi chung với đoàn, bỏ mặc chiếc long xa cho anh tài xế lái bám theo. Ở Vatican, Giáo hoàng Francis là vua một cõi. Nhưng bụt chùa nhà vẫn thường không thiêng. Tại quê hương – đất nước lẫy lừng với nhạc phẩm “No llores por mi Argentina” (Argentina hỡi, đừng khóc cho tôi!) – sau chấn động của cảm xúc rạng rỡ và kiêu hãnh phút đầu, người ta bắt đầu đào bới những đề tài tiêu cực về Hồng y Bergoglio hồi ông còn là giám mục địa phận thủ đô – nơi 12 năm trước ông từng bất ngờ vào Bệnh viện Muniz ở thủ đô, xin ban giám đốc một bình nước lã để quì xuống rửa rồi hôn chân của 12 người mang bệnh AIDS. Năm 2005, một nhà báo tố cáo ông tiếp tay cho chế độ độc tài quân sự, và trong thời gian ông là Chủ tịch Hội đồng Giám mục Argentina, linh mục Federico von Wernich, cựu tuyên úy cảnh sát, ra tòa và bị kêu án chung thân vì tội đồng lõa trong một vụ giết người, bắt cóc và tra tấn. Bấy giờ Hồng y Bergoglio chọn thái độ không công khai xin lỗi, cũng không phê phán về bản án của ông tuyên úy. Ngoài ra, người ta cũng đang khai quật lại quá khứ của đất nước, cho rằng hồng y đã không nhiệt tình đứng lên để phản đối chính quyền quân phiệt Argentina trong thập niên 1970, cũng như họ bảo rằng ông biết những 30.000 người bị chính quyền độc tài bắt cóc, tra tấn hoặc thủ tiêu mà không làm hết mình để ngăn cản, trong cuộc xung đột có tên “Cuộc chiến Bẩn thỉu”. Quan trọng nhất là trường hợp linh mục Gabriel Longueville cùng cha phó Carlos de Dios Murias của giáo xứ El Chamical thuộc giáo phận La Rioja, bị bắt cóc hôm 17/07/1976, và xác hai người được tìm thấy ngày hôm sau, đầy những vết đạn. Người dân cho rằng giám mục Enrique Angelelli biết rằng ông cũng đang bị mật vụ theo dõi, vì cứ nghe ông than thở “Rồi sẽ đến lượt tôi!”. Quả thế, 18 ngày sau, ông cùng linh mục Arturo Pinto đến giáo xứ để làm lễ tưởng niệm cho 2 giáo sĩ bị giết, trên đường về mang theo ba kẹp hồ sơ thu thập được về hai cái chết. Xe của 2 ông giáo sĩ bị 2 xe lạ chặn đầu bám đuôi, khi đến Cao điểm Los Llanos, đã bị 2 xe kia ép lật nhào. Sống sót và tỉnh dậy, cha Pinto thấy giám mục Angelelli đã chết, với vết thương lớn sau lưng như bị đánh. Khi mang vụ án mạng ra xử, thẩm phán chấp nhận báo cáo của cảnh sát rằng đấy là tai nạn lưu thông, còn nữ công tố viên Martha Guzmán Loza đề nghị đóng hồ sơ. Các giám mục Jaime de Nevares, Jorge Novak và Miguel Hesayne cho đây là một vụ cố sát, nhưng giáo hội Công giáo Argentina giữ thái độ im lặng. Không có tang chứng nào để cáo giác rằng linh mục Bergoglio giám tỉnh Dòng Tên biết được nguồn ngọn vụ án nầy, và 22 năm sau ông mới làm giám mục địa phận thủ đô, cách xa địa phận La Rioja 950 km đường chim bay. Trước các cáo giác rất chính trị và rất người, có lẽ Giáo hoàng Francis càng khó quên lời điệp khúc bài hát do Tim Rice viết, “Đừng khóc cho tôi Argentina ơi! Sự thật là tôi không bao giờ xa rời đất nước”. NgyThanh
|