Như những gì chúng ta
vừa đề cập đến, người tin hữu giáo dân chỉ có vai trò trong sứ
mạng của Giáo Hội giữa trần thế ( ad extra) thôi sao?
Câu hỏi, ai trong chúng
ta cũng tự nhiên cảm thấy phải đặt lên, sau những gì đã được đề
cập ở phần trước.
Trở lại quan niệm thời
tiền Công Đông Vatican II, theo đó thì hàng giáo phẩm và tu sĩ "
có nhiệm vụ đối với những gì liên quan đến Giáo Hội ",
trong khi đó, lãnh vực của người tín hữu giáo dân là " những
gì thuộc về thế tục ".
a ) Theo quan niệm
của Công Đồng Vatican II, tư tưởng tách biệt lãnh vực và chủ thể
như vừa kể là tư tưởng cần phải được loại bỏ.
Cần mạnh dạn xác định
rằng, trong cộng đồng Giáo Hội, tất cả không trừ ai, đều có liên
hệ đến cả hai lãnh vực. Nhưng là liên hệ theo phương thức khác
nhau, tùy theo ơn gọi của mỗi người, của mỗi hạng người.
Tuy nhiên, nếu cách sống
của người tín hữu giáo dân được đặt trọng tâm trên các lãnh
vực trần thế, điều đó không có nghĩa là họ không có phận vụ
vai chính cả trong các lãnh vực đời sống nội tại ( ad intra
) của Giáo Hội.
Trước tiên, cần phải nói
cách khác đối với những gì một đôi khi được nghĩ đến và nói lên,
đó là Giáo Hội không phải được phân chia thành hai thành phần,
một " Giáo Hội huấn dạy và một Giáo Hội học hỏi, lắng nghe
", phần " Giáo Hội huấn dạy " gồm hàng giáo phẩm với
quyền huấn dạy và cai quản, còn phần thứ hai gồm có các tín hữu
giáo dân phải biết lắng nghe, học hỏi và được hướng dẫn.
Trái lại, tất cả Giáo
Hội đều gồm cả hai phần, phần nầy lẫn phần kia, tuy tùy theo
phương thức và độ lượng khác nhau.
Lý do cuối cùng của
những gì vừa kể là Lời Chúa được Chúa giao cho cả cộng đồng
Giáo Hội ( Dei Verbum, 10a), chớ không phải đặc quyền
đặc nhiệm cho một vài người.
Từ đó đưa đến điều cần
thiết là cả cộng đồng Giáo Hội đều phải học hỏi, hiểu biết sâu
đậm và loan báo cho thế gian, mặc dầu dĩ nhiên trong đó một vài
người được kêu gọi trở thành lãnh đạo, hướng dẫn, và những người
khác được mời gọi hãy cộng tác một cách có trách nhiệm, mặc dầu
không ở vị trí lãnh đạo.
Và bởi vì Lời Chúa được
thể hiện sống động trong lịch sử, trong các biến cố và trong
các hoàn cảnh sống của con người ( Dei Verbum 2; Gaudium et spes
11a), chúng ta hiểu được tầm quan trọng không thể thay thế
và cá biệt sự góp phần cộng tác của các tín hữu giáo dân, nam
cũng như nữ, trong việc chuẩn định, bởi lý do chính vì họ là
những người sống sát gần với các thực tại trần thế, họ có thể
thu nhận dễ dàng hơn và sát với thực tế hơn.
Trong nhãn quang đó,
Hiến Chế Lumen gentium xác nhận rằng các vị chủ chăn
- " được trợ lực
bằng kinh nghiệm của các tín hữu giáo dân, có thể hướng dẫn một
cách trong sáng rõ ràng hơn và thích hợp hơn trong các vấn đề
thiêng liêng cũng như những vấn đề trần thế, và như vậy cả Giáo
Hội, được nâng đỡ bởi mọi thành phần của mình, có khả năng thể
hiện hữu hiệu hơn sứ mạng của mình cho cuộc sống thế giới " (
LG, n. 37d).
Đàng khác, từ động tác
ngôn sứ được thực hiện trong lòng cộng đồng Giáo Hội, các tín
hữu giáo dân có thể rút ra được lợi ích cho cuộc sống và động
tác của mình giữa trần thế.
Người tín hữu giáo dân
có thể khám phá ra, cùng với anh chị em khác trong đức tin, ý
nghĩa cuối cùng của các thực tại mà giữa đó họ đang sống, và từ
đó cũng có thể thấy được đâu là phương thức thực tại hơn để loan
báo Phúc Âm cho những người cùng chung sống với họ trên thế
giới.
b) Kế đến, như chúng
ta đã có dịp đề cập trong bài viết trước, Hiến Chế Lumen
Gentium trong khi để cập đến đề tài phưọng tự, đã xác nhận
rằng tất cả những gì người tín hữu giáo dân tác động trong
Chúa Thánh Thần, đều trở nên của lễ hiến tế thiêng liêng, mà
trong lúc cử hành Thánh Thể, cùng với động tác dâng Mình Chúa Ki
Tô, họ cũng dâng những của lể đó lên Chúa Cha ( LG, n. 34b).
Điều gì họ đang sống
trong cuộc sống thông thường và thường nhật của mình, chính
những điều đó tự chúng đã là " động tác phụng tự thiêng
liêng ", người tín hữu giáo dân cử hành trong cộng đồng
Giáo Hội dâng lên Chúa trong những giây phút phụng tự.
Đây là những lúc đặc thù
người tín hữu giáo dân hành xử phận vụ tư tế của mình. Đây thật
là một động tác đồng tế đích thực, trong đó mọi thành phần của
cộng đồng Giáo Hội đều tích cực tham dự, và cũng trong đó cho
thấy nhiều phương diện phục vụ khác nhau trong Giáo Hội.
Trên nền tảng đó,
Hiến Chế Công Đồng Sacrosanctum Concilium đã nhấn mạnh đến
sự tham dự tích cực của mọi tín hữu vào các buổi cử hành phụng
vụ, phụng vụ không bao giờ là những buổi cử hành riêng tư, mà
luân luôn là cử hành với danh nghĩa công đồng ( n. 26a).
Các vị thừa tác viên,
dưới quyền năng của Phép Truyền Chức, được mời gọi chủ toạ trong
các buổi cử hành phụng vụ, nhưng không vì đó mà những tham dự
viên khác chỉ được coi là những người được hưởng đơn thuần và
thụ động, những gì mà các vị thừa tác viên thực hiện cho.
Trái lại, mọi người đều
được mời gọi cảm nhận mình - vì thực ra chính họ là như vậy -
đồng trách nhiệm trong việc cử hành phụng vụ, và cũng vì lý do
đó mà phải cảm thấy mình có trách nhiệm cộng tác với tất cả khả
năng của mình để thực hiện tốt đẹp đầy đủ ý nghĩa buổi cử hành
phụng vụ dâng lên Chúa.
Tưởng cần nhắc lại một
lần nữa tầm quan trọng sự cộng tác của các tín hữu giáo dân nam
nữ vào phụng vụ. Nếu sứ mạng của Giáo Hội là nhằm để phục vụ
trần thế, phụng vụ của Giáo Hội cần phải được thấm nhuần bởi
những đòi hỏi mà đức tin chuyển đến, về những gì đã và đang xảy
ra trong môi trường trần thế.
Nếu không, phụng vụ của
Giáo Hội chỉ là phụng vụ rỗng không, không có ý nghĩa gì dâng
thế giới lên cho Chúa.
Trong tư tưởng đó, chúng
ta có thể tiên đoán được đâu là phần cộng tác cá biệt và quan
trọng mà các tín hữu giáo dân nam nữ có thể góp phần vào phụng
vụ, vì họ là những chủ thể hằng ngày sống mặt giáp mặt, vai kề
vai với thế giới, với những hoàn cảnh " vui mừng và hy
vọng, đau khổ và lo âu " của họ và của thế giới, mà họ có
thể đem đến để hiến dâng lên Chúa và nói với Chúa.
c) Sau cùng, mỗi tín
hữu nam nữ giáo dân đều được gọi là " ông " hay là "
người đầy tớ " theo tinh thần Phúc Âm, trong lòng Giáo Hội (
GS, 32 ).
Ngoài những buổi cử hành
phụng vụ, cuộc sống cộng đồng Giáo Hội cũng cần có những việc
phục vụ xác định: tổ chức, lãnh đạo, giảng dạy, cứu trợ...
Đời sống trong cộng đồng
càng được tổ chức liên đới huynh đệ bao nhiêu, cần phải có lòng
sẵn sàng cộng tác trợ giúp của các thành viên mình bấy nhiêu.
Điều đó không có gì lạ, chúng ta đã có được nhiều chứng cứ trong
các công đồng Ki tô hữu đầu tiên trong Tân Ước, nhứt là trong
sách Tông Đồ Công Vụ.
Trong bối cảnh đó, chúng
ta nên nhắc lại những gì Công Đồng Vatican II nói về mối tương
quan giữa các tín hữu giáo dân và mục tử.
Một tiêu chuẩn định
hướng, chúng ta được Công Đồng cung cấp cho trong chính chương
dành riêng đề cập đến các tín hữu giáo dân của Hiến Chế Lumen
Gentium:
- " Như vậy, trong
Giáo Hội, không phải tất cả đều cùng đi trên một con đường,
nhưng tất cả đều được mời gọi tiến đến sự thánh thiện và tất cả
đều đã có, tùy theo phần của mình, cùng một đức tin do quyền
năng đức công chính của Chúa. Một vài người do ý muốn của Chúa
là những vị tiến sĩ và những vị phân phát các mầu nhiệm, các vị
chủ chăn cho những người khác, nhưng giữa tất cả đều hiện hữu
hiệu lực một quyền bình đẳng đích thực về địa vị " ( LG 32b).
Như vậy Công Đồng nhấn
mạnh đến một một phương điện rất quan trọng về đời sống và tổ
chức Giáo Hội: trong Giáo Hội không hề có bậc thang về phẩm trật
địa vị, bởi vì tất cả các thành phần của Giáo Hội đều ngang nhau
về phưong diện đó, và không ai là người trổi thượng hơn người
khác.
Sau khi tuyên bố nguyên
tắc nền tảng vừa kể, bản văn vừa được trích dẫn tiếp tục:
- " như vậy, người
tín hữu giáo dân, theo đồ án của Thiên Chúa, có Chúa Ki Tô là
người anh mình ( ...) như vậy, họ cũng có những người anh em là
những người đưọc đặt để vào các chức vụ thiên thánh, để bằng
cách giảng dạy, thánh hoá và chăn dắt nhân danh Chúa Ki Tô, các
anh em đó chăn dắt gia đình Chúa Ki Tô, để cho mỗi người thực
hiện hoàn hảo giới răn mới về bác ái " ( LG, n. 32d).
Mối tương quan thứ nhứt
và nền tảng, đó là mối tương quan bình đẳng huynh đệ. Nhưng mối
tương quan đó không loại bỏ đi mối tương quan thứ hai phụ túc
nầy: đó là sự khác biệt nhau trong trách nhiệm, nhưng là sự khác
biệt luôn luôn phải được chính tình huynh đệ thấm nhuần.
Trong lý chứng đó, Hiến
Chế Lumen Gentium nhấn mạnh đến việc đồng trách nhiệm của các
tín hữu giáo dân trong cuộc sống và trên cuộc hành trình của
cộng đồng Giáo Hội:
- " Trong tầm mức
hiểu biết, thẩm quyền và uy thế mà họ có được ( người tín
hữu giáo dân) họ có quyền, nói đúng hơn, một đội khi, có bổn
phận phải nói lên cho biết ý kiến của họ đối với những gì có
liên quan đến những gì tốt lành cho Giáo Hội " ( LG, n. 37 a).
Hiểu như vậy, chúng ta
thấy được Công Đồng mời gọi các chủ chăn hãy nhận biết và phát
huy phẩm giá và trách nhiệm của người tín hữu giáo dân trong
Giáo Hội.