LỄ MẸ
THIÊN CHÚA Ngày mồng 1 tháng
Giêng _____________
I. TIẾN TRÌNH
TÍN ĐIỀU MẸ THIÊN CHÚA
Đức Maria là
Mẹ Thiên Chúa vì Con của Mẹ là Thiên Chúa. Mẹ chỉ là Mẹ trong trật
tự sản sinh nhân loại, nhưng Con mà Mẹ thụ thai và hạ sinh là
Thiên Chúa, nên Mẹ phải được gọi là Mẹ Thiên Chúa. Tín lý này đã
được Phúc âm thánh Luca minh hoạ rõ ràng, và từ thế kỷ II đã được
các thánh Giáo phụ Inhaxiô Antiokia, Irênêô, Cyrillô Alexandria,
Augustinô, Epiphanô diễn giải sâu rộng để đối phó với lạc thuyết
của các bè rối Gnosticism, Docetism. Thánh Gioan Tông đồ loan báo
chứng thực rõ ràng rằng ngài đã từng mắt thấy, tai nghe và đụng
chạm tới Chúa Giêsu là Ngôi Lời hằng sống đã xuất hiện , vậy mà
các bè rối đó vẫn nói Chúa Giêsu chỉ là ảo tượng. Lạc thuyết này
muốn phá đổ tự nền tảng công cuộc Cứu chuộc của Chúa Kitô. Vì thế,
các Giáo phụ dựa trên tín lý phẩm chức Thiên mẫu của Mẹ Maria để
phá tan lạc thuyết này rằng Đức Trinh Nữ không thể là Mẹ nếu không
có Con. Và Người không có Con, nếu Chúa Giêsu chỉ là một bóng ma.
Giáo phụ Tertulianô bác bỏ Marcion người lạc giáo: "Mục đích phủ
nhận thân xác Chúa Kitô, ông chối bỏ việc Người sinh ra. Hay là để
chối bỏ việc Người sinh ra, ông phủ nhận thân xác Chúa. Thân xác
và sự đản sinh làm chứng lẫn nhau: Không có sự đản sinh thì cũng
không có thân xác. Hoặc là không có thân xác thì không có sự đản
sinh.
Khi thấy Chúa
đi trên mặt biển và khi thấy Chúa hiện ra sau khi Người sống lại,
các tông đồ tưởng Người là ma. Nhưng Người đã quả quyết: "Chính
Thầy đây!" Như vậy Chúa Giêsu có thân xác thực sự sống động. Mà
nếu thân xác Người là thân xác của Thiên Chúa bởi trinh huyết Đức
Trinh Nữ Maria, thì Đức Maria phải được gọi là Mẹ Thiên Chúa. Một
thân xác là thân xác của Thiên Chúa lúc hiệp với ngôi Con Thiên
Chúa là Thiên Chúa thật như Chúa Cha.
Sang thế kỷ
III và thế kỷ IV, các thánh Giáo phụ đều đồng thanh cao rao chúc
tụng Mẹ Thiên Chúa. Năm 325, Công đồng Nicêa I (nay là Iznik, bắc
Thổ nhĩ kỳ) lên án lạc giáo Ariô, đồng thời định tín Ngôi Lời đồng
bản thể với Đức Chúa Cha, và đặt kinh Tin kính (gọi là kinh Tin
kính Nicêa đọc trong thánh lễ). Tín điều này chứng minh Chúa Giêsu
là Thiên Chúa thật, cùng với tín lý Mẹ Thiên Chúa của các thánh
Giáo phụ sẽ mở đường cho tín điều Mẹ Thiên Chúa của Công đồng
Ephêsô sau này.
Đến thế kỷ V,
trong khi tín lý Mẹ Thiên Chúa đang được các Giáo phụ rao giảng
rất minh bạch và phấn khởi, thì Nestoriô, thượng phụ giáo chủ
thành Constantinopôli lên tiếng trong các bài giảng phản đối, vì
ông chủ trương rằng: Chúa Giêsu có hai bản tính nên có hai ngôi
vị. Đức Maria chỉ là Mẹ ngôi vị nhân tính của Chúa Giêsu, nên
không phải là Mẹ Thiên Chúa. Năm 430, một hội đồng tại Rôma lên án
lạc giáo Nestôriô, và Đức Thánh Celestinô I viết một bức thư
khuyến cáo Nestôriô. Nestôriô tâu xin hoàng đế Thêôdôsiô I triệu
tập Công đồng Êphêsô năm 431. Nhưng Thánh Cyrillô, Thượng phụ giáo
chủ thành Alexandria, được Đức Thánh Celestinô uỷ nhiệm chủ toạ
công đồng gồm khoảng 250 giám mục Đông phương, một giám mục Tây
phương và một phó tế thành Carthage cùng với ba đặc sứ của Đức
Celestinô. Mặc dù sự phản kháng của 68 giám mục tán đồng lạc giáo
Nestôriô và sự cản ngăn của Candidianô, sứ giả của hoàng đế
Thêôdôsiô, Công đồng vẫn khai mạc ngày 22 tháng 6 tại đền thờ Đức
Mẹ tại Êphêsô. Công đồng minh định Chúa Giêsu có hai bản tính
nhưng chỉ có một ngôi vị duy nhất là Thiên Chúa. Mẹ Maria là Mẹ
thật của Chúa Giêsu nên Mẹ thật là Mẹ Thiên Chúa. Rồi Công đồng
long trọng tuyên tín: "Nếu ai không tuyên xưng Emmanuel là Thiên
Chúa thật, và do đó Rất Thánh Trinh Nữ là Mẹ Thiên Chúa, vì Mẹ
sinh ra xác phàm của Ngôi Lời nhập thể, thì mắc vạ tuyệt thông".
Đồng thời, các Nghị phụ ký giấy ra vạ cho Nestôriô: "Vì Chúa Giêsu
Kitô bị Nestôriô xỉ nhục, Thánh Công Đồng này đã tuyên bố Nestôriô
bị loại trừ khỏi chức phẩm giám mục và khỏi mọi hiệp thông linh
mục".
Tại Công
đồng, Thánh Proclô thẳng thắn chống lạc giáo Nestôriô. Và Nghị phụ
Giám mục Thêôdôtê Ancyre (446) triệt để ủng hộ Thánh Cyrillô và
gắt gao tố cáo buộc tội Nestôriô rối đạo. Trong khi Công đồng đang
diễn tiến, Thánh Cyrillô viết cho Giám mục Acaciô Beroea có nói
đến năm giáo phụ cũng lên án Nestôriô: Đó là hai Thượng phụ
Alexandria là Athanasiô và Thêôphilê, hai Thượng phụ
Constantinopôli là Grêgôriô và Atticô. Và vị thứ năm là Thánh
Basiliô. Sau này, Nestôriô bị đày vào đan viện Euprépia gần
Antiôkia, rồi tại một ốc đảo bắc Aicập cho tới chết trong sự cố
chấp và buồn bực.
Ngay chiều
hôm đó, toàn dân thành Êphêsô phấn khởi nô nức thắp đuốc tưng
bừng, rực sáng, tổ chức một cuộc rước đuốc vĩ đại reo mừng sự vinh
thắng của Mẹ Thiên Chúa, và hoan hô các Nghị phụ Công đồng Êphêsô.
Họ cũng đem đuốc hộ tống các ngài về đến tận nhà.
Tín điều Mẹ
Thiên Chúa do Công đồng Êphêsô long trọng tuyên tín, như một luồng
gió xuân tươi mát dịu dàng trào thổi từ Êphêsô sang khắp các miền
Alexandria, Constantinopôli, Antiôkia, sang Rôma, khắp Âu châu rồi
dần dần ra khắp hoàn cầu. Lòng sùng kính mến yêu Mẹ Maria thêm
muôn phần phấn khởi đã được biểu hiện ra nhiều việc sùng mến Mẹ
Thiên Chúa: Nhà thờ Đức Mẹ nơi diễn tiến Công đồng Êphêsô đã trở
thành Vương cung thánh đường Mẹ Thiên Chúa.
Năm 432, Đức
Sixtô III xây cất lại và cung hiến Đền thờ Đức Bà Cả trên đồi
Esquilinô tại Rôma mà Đức Liberiô xây cất năm 352 cho Mẹ Thiên
Chúa, và nâng lên bậc Vương cung thánh đường.
Năm 451, Công
đồng Chalceđônia cũng tuyên xưng Mẹ Maria là Mẹ Thiên Chúa. Đồng
thời, Thánh Pulcheria nữ hoàng Byzantin, kiến thiết hai đền thờ Mẹ
Thiên Chúa tại Constantinopôli. Năm 534, Đức Gioan II tuyên nhận
Mẹ Maria là Mẹ thật của Thiên Chúa. Năm 553, Công đồng
Constantinopôli II tái tuyên nhận tín lý chức phẩm Thiên Mẫu. Từ
đó nhiều nhà thờ dâng kính Mẹ Thiên Chúa được xây cất tại Thụy sĩ,
Hoà lan, Đức, Anh, và Pháp. Riêng Pháp có năm đền thờ Mẹ Thiên
Chúa ở Reims, Coutances, Tours, Poitiers, và Toulouse. Ảnh tượng
Mẹ Thiên Chúa cũng được phổ biến khắp nơi, đặc biệt là ảnh Mẹ
Thiên Chúa do Thánh Luca minh hoạ. Tới nay rất nhiều hoạ sĩ vẽ ảnh
hay nghệ sĩ tạc tượng Mẹ Thiên Chúa với nhiều kiểu, theo nhiều văn
hoá dân tộc tuyệt đẹp. Và các Thánh tiến sĩ các nhà thần học, các
Đức Giáo hoàng liên tiếp rao giảng và chúc tụng Mẹ Thiên Chúa.
Năm 1215,
Công đồng Lateranô IV tuyên nhận Chức phẩm trinh trong Mẹ Thiên
Chúa. Năm 1427 trong một bài giảng, Thánh Bênađinô đọc lời cầu
nguyện: "Ave Maria Jesus, Sancta Maria, Mater Dei, ora pro nobis".
Câu "Thánh Maria Đức Mẹ Chúa Trời, cầu cho chúng con là kẻ có tội
khi nay và trong giờ lâm tử" được đưa vào kinh do các nữ tu Dòng
Đức Bà Tình Thương (Our Lady of Mercy) năm 1514, các đan sĩ Dòng
Camaldolesia năm 1515 và Dòng Phanxicô năm 1525. Năm 1568, Đức
Thánh Piô V chính thức xác định như chúng ta thường đọc ngày nay.
Công đồng
Vatican II (1962-1965) dạy: "Từ muôn đời, Đức Trinh Nữ đã được
tiền định làm Mẹ Thiên Chúa cùng một lúc với việc Nhập Thể của
Ngôi Lời Thiên Chúa... Đức Trinh Nữ nhờ ơn huệ và vai trò làm Mẹ
Thiên Chúa, Mẹ được hợp nhất với Con Mẹ là Đấng Cứu Chuộc và hiệp
nhất với Giáo hội.. Mẹ Thiên Chúa là mẫu mực của Giáo hội trên
bình diện đức tin, đức ái và hoàn toàn hiệp nhất với Chúa Kitô".
Nhờ Giáo huấn
của Giáo hội và lời giảng dạy của các Thánh Giáo phụ, các Thánh
tiến sĩ và các nhà thần học, giáo dân trong khắp Giáo hội mỗi ngày
thêm vững tin tín điều Mẹ Thiên Chúa và sốt sắng sùng mến
Mẹ.
II. LỊCH SỬ
PHỤNG VỤ
Bên Đông
phương, lễ Mẹ Thiên Chúa được mừng đầu tiên tại Giêrusalem ngày 15
tháng 8, quãng năm 428, rồi lan sang Armenia và Gethsemania năm
458. Giáo hội Byzantin mừng vào ngày 26 tháng 12, và Giáo hội
Coptic mừng vào ngày 16 tháng Giêng.
Bên Tây
phương, tại Rôma, thoạt tiên lễ Giáng sinh cũng là lễ Đức Trinh Nữ
là Mẹ Thiên Chúa, vì khi hạ sinh Con Thiên Chúa trong xác thể, Đức
Trinh Nữ cộng tác vào việc Thiên Chúa sinh ra Con Một Người từ
muôn thuở. Bởi vậy thế kỷ XII, lễ Giáng sinh ban ngày được mừng
trọng thể tại đền thờ Đức Bà Cả ở Rôma. Theo Dom Botte, khoảng từ
năm 600, lễ Đức Mẹ đầu tiên chính thức trong Phụng vụ Rôma là lễ
ngày mồng một tháng Giêng là ngày tuần tám lễ Giáng sinh, nên Đức
Bênêđictô XIV ấn định mừng lễ Chúa Giêsu chịu phép cắt bì. Và lễ
Đức Mẹ được dời vào tháng Tám. Nhiều nơi mừng vào Chúa nhật IV mùa
Vọng hay ngày 18 tháng 12.
Thế kỷ VII,
Giáo hội Tây Ban Nha theo sắc lệnh Công đồng Toleđô năm 656 mừng
lễ Mẹ Thiên Chúa ngày 18 tháng 12 trước lễ Giáng sinh tám ngày.
Giáo hội Milan mừng Mẹ Maria chịu thai trinh vẹn vào ngày thứ tư
bốn mùa tháng 12. Năm 1751, tại Bồ Đào Nha, lễ Mẹ Thiên Chúa được
Đức Bênêđictô XIV ban phép mừng vào Chúa nhật thứ nhất tháng 5.
Năm 1914, nhiều giáo phận và nhiều dòng tu được mừng vào ngày 11
tháng 10.
Năm 1931, để
kỷ niệm 15 thế kỷ Công đồng Êphêsô tuyên tín Mẹ Maria là Mẹ Thiên
Chúa, Đức Piô XI ban hành thông điệp "Lux Veritatis" diễn giải tín
lý Nhập Thể, do đó Đức Trinh Nữ Maria trở nên Mẹ Thiên Chúa. Đức
Piô XI còn truyền dạy mừng lễ Mẹ Thiên Chúa trong khắp Giáo hội
vào ngày 11 tháng 10.
Năm 1962, Đức
Gioan XXIII khai mạc Công đồng Vatican II vào chính lễ Mẹ Thiên
Chúa ngày 11 tháng 10 để trao phó công cuộc đại sự này trong tay
Thiên Mẫu vạn năng của Mẹ Thiên Chúa cũng là Mẹ Giáo hội. Trước
năm 1969 ngày mồng một tháng Giêng kính Chúa Giêsu chịu phép cắt
bì. Năm 1969 trong chiều hướng canh tân Phụng vụ, Đức Phaolô VI đã
đổi lễ Mẹ Thiên Chúa sang ngày 1 tháng Giêng.
III. Ý NGHĨA
PHỤNG VỤ
Đức Phaolô VI
đặt lễ Mẹ Thiên Chúa vào ngày mồng một tháng Giêng đầu năm dương
lịch, để tôn vinh Mẹ là Nữ Vương thời gian, cũng như Đức Piô XII
đã đặt lễ Mẹ Nữ Vương vào ngày 22 tháng 8 để tôn vinh Mẹ là Nữ
Vương không gian. * Về không gian, Mẹ Maria là ngôi sao sáng
soi khắp vũ trụ, làm bừng sáng các tầng trời và chiếu toả các âm
phủ (Thánh Bênađô), vì Mẹ cao sang giáp giới tuyến vô biên Thiên
Chúa (Thánh Tôma). Là Mẹ Thiên Chúa, Mẹ được tham dự quyền thống
trị với Chúa. Là Mẹ Chúa Kitô Vua vũ trụ, Mẹ được thông phần vương
quyền của Người để được tôn phong là Nữ Vương vũ trụ. Mẹ hấp thụ
tất cả các ơn Chúa. Ân sủng không nhỏ giọt trên Mẹ, nhưng trào đổ
trên Mẹ như một trận mưa dạt dào (Thánh Tôma). Do đó, Mẹ Maria
thật là Nữ Vương không gian.
* Về thời
gian, Vương quyền của Mẹ Maria đã có trong thánh lệnh muôn đời của
Thiên Chúa trước khi đất trời được tạo thành (xem Cn 8:22-29).
Trong thời gian, Vương quyền của Mẹ bừng sáng ngay từ thuở ban sơ,
qua lời Thiên Chúa tuyên án con Rắn già hoả ngục: "Người Nữ sẽ đạp
giập nát đầu mày" (St 3:15). Qua các thời đại, Mẹ vẫn giao chiến
chống lại các bè rối, và Mẹ sẽ chiến thắng con Rồng đỏ trong ngày
thế mạt (xem Kh 12:1-17). Vương quyền Mẹ sẽ kéo dài vô cùng tận,
vì là Mẹ Chúa Kitô, Mẹ được tham dự vương quyền vô tận của Ngài
(Lc 1:33) và tham dự thế lực cầu bầu của Ngài . Do đó, Mẹ Maria
thật là Nữ Vương thời gian.
Thiên Chúa
hằng hữu vô biên siêu thời gian. Ngài nâng Mẹ Maria là một thụ tạo
hữu hạn lên, thông ban ưu phẩm siêu thời gian của Ngài để đem
thánh lệnh cứu rỗi muôn thuở của Ngài vào thời gian, và do đó, đem
Chúa Ngôi Hai hằng hữu siêu thời gian vào thời gian. Thiên Chúa
thông ban cho Mẹ ưu phẩm siêu thời gian của Ngài, cho Mẹ được
thông phần bản tính phong phú của Ngài, để Mẹ trở nên Mẹ Chúa
Kitô, được thông phần bản tính tình yêu của Ngài và trở nên Mẹ các
chi thể Chúa Kitô là chính chúng ta (Đức GM Bossuet). Mẹ Maria
được Thiên Chúa vô biên ban cho chức phẩm Thiên Mẫu hầu như vô
biên, để Mẹ kéo thiên tính vô biên xuống kết hợp với nhân tính hữu
hạn. Mẹ trao nhân tính cho Chúa Ngôi Hai siêu thời gian để Người
trở thành Con của Mẹ trong thời gian, và để Người thông ban cho Mẹ
ưu phẩm siêu thời gian của Người. Thánh Tôma nói: "Vì là Mẹ Thiên
Chúa, Mẹ Maria được chức phẩm như vô cùng do sự kiện Chúa là Thiên
Chúa vô biên".
Được tham dự
vào ưu phẩm siêu thời gian của Thiên Chúa, Mẹ Maria đã đưa Chúa
Ngôi Hai siêu thời gian vào thời gian là Chúa Giêsu Kitô, Chúa
chúng ta, để Người cứu chuộc chúng ta, làm cho chúng ta được thông
phần ưu phẩm siêu thời gian của Người, được trở nên con cái Thiên
Chúa, trở nên em Chúa Giêsu và trở nên con của Mẹ. Lạy Mẹ Maria
yêu dấu! Phẩm chức Thiên Mẫu của Mẹ thật cao quí vì là do tác động
của tình yêu: Tình yêu vô biên của Thiên Chúa đã tiền định Mẹ là
Mẹ Người, một chức phẩm rất mực cao sang. Thánh Bonaventura nói
"Chức phẩm Mẹ Thiên Chúa là một ơn lớn lao nhất được ban cho một
thụ tạo. Thiên Chúa có thể dựng nên một thế giới lớn hơn, một
thiên đàng lớn hơn, nhưng không thể nâng một thụ tạo cao hơn Mẹ
Người". Tình yêu nồng cháy của Chúa Thánh Linh đã làm cho Chúa
Ngôi Hai hiện hoá hữu hình trở nên Con của Mẹ để yêu mến và được
mến yêu. Tình yêu đặc biệt của Chúa Con đối với Mẹ là tình yêu
thảo hiền từ muôn thuở và sẽ vô cùng tận: Chúa Giêsu luôn luôn là
Con của Mẹ, và Mẹ mãi mãi là Mẹ của Chúa. Tình yêu duy nhất của Mẹ
qua lời "tuân vâng" đã khiến Mẹ lãnh nhận làm Mẹ Chúa Cứu Thế và
Mẹ loài người chúng con. Do đó, Mẹ yêu mến Chúa và yêu thương
chúng con với tấm lòng Hiền Mẫu luôn luôn nồng thắm dịu êm và đậm
đà, và khuyến khích chúng con phải hết tình thiết tha ngoan thảo
yêu mến Chúa và Mẹ.
Chức phẩm
Thiên Mẫu của Mẹ quả thật do tình yêu, vì tình yêu, và cho tình
yêu, từ các tầng trời xuống khắp trái đất, từ muôn thuở tới muôn
thế hệ. Do vậy, Mẹ rất xứng đáng được tuyên phong là Nữ Vương
không gian và thời gian.
Trong bài
giảng khai mạc ba năm chuẩn bị Đại Năm Thánh 2000, Đức Gioan
Phaolô II nói: "Khi làm người, Con Thiên Chúa, Ngôi Lời đồng bản
thể với Chúa Cha, đã nhận lấy thời gian của chúng ta trong mọi
chiều kích và Ngài hướng thời gian về vĩnh cửu. Thực vậy, vĩnh cửu
là chiều kích của Thiên Chúa. Khi nhập thể làm người, Con Thiên
Chúa cũng chấp nhận trọn vẹn thời gian của nhân loại, với nhân
tính của Ngài, để dẫn con người qua mọi chiều kích của thời gian
này hướng về vĩnh cửu, và cho con người được tham dự vào cuộc sống
thần linh vốn là gia sản đích thực của Chúa Cha, Chúa Con, và
Thánh Linh".
IV. Ý NGHĨA
LỜI CHÚA TRONG THÁNH LỄ
Bài đọc I:
Dân số 6:22-27.
Sách này được
chọn làm Bài đọc I lễ Mẹ Thiên Chúa vì hai lý do: 1. a) Nhờ mầu
nhiệm Nhập Thể, chúng ta được ba lời chúc lành của Chúa Cha (Ds
24, 25, 26);
b) Chúa Con
phản ảnh vinh quang Chúa Cha (Dt 1:3);
c) Thánh Linh
tỏ ra Chúa Con và chương trình muôn đời của Thiên Chúa (Ga 14:26;
15:26-27; 16:13-15).
2. Lễ Mẹ
Thiên Chúa trùng ngày đầu năm. Người ta chúc mừng nhau mọi phúc
lành.
Bài đọc II: Galata 4:4-7.
Thánh Phaolô
trực tiếp nói về Đức Mẹ Maria. Câu 4: "Con Thiên Chúa được sai đến
và sinh bởi người nữ" lược tóm lịch sử Cứu rỗi. Lý do là:
1. Để cứu
chuộc những người ở dưới Luật, Con Thiên Chúa cho ta được quyền
nghĩa tử của Thiên Chúa.
2. Thiên Chúa
sai Thánh Linh Con Chúa đến trong lòng chúng ta, để chúng ta có
thể gọi Thiên Chúa là Cha, nên chúng ta không còn là nô lệ, nhưng
là con, là thừa kế của Người. Thánh Phaolô cho chúng ta thấy rõ
chương trình Cứu rỗi của Chúa nhờ Mẹ Maria là Mẹ Đấng Cứu
Thế.
Phúc âm: Luca
2:16-21.
Phúc âm trình
chiếu cảnh Bêlem trong đêm Giáng sinh để cho thấy Đức Maria là Mẹ
Đức Kitô là Thiên Chúa: Được các thiên thần hiện ra loan báo tin
mừng Chúa Giáng sinh, các mục đồng hối hả đi tìm gặp Maria và
Giuse cùng Hài Nhi nằm trong máng cỏ (2:16). Các mục đồng được
loan áo tin mừng đầu tiên vì họ là hạng người hèn kém trong xã hội
Do thái thời đó, nhưng tâm hồn họ đơn thật an vui. Họ đã đến, đã
gặp gỡ Chúa Hài Nhi, Mẹ Maria và Thánh Cả Giuse. Họ hiểu được lời
thiên thần loan báo. Họ đã loan báo tin mừng cho mọi người và vui
mừng tôn vinh Thiên Chúa vì mọi điều họ đã được mắt thấy tai nghe
(2:17-21).
Nguon:
dongcong.net
L.m. Phêrô,
CMC
Tác giả
L.m. Phêrô, CMC
|