MeMaria.org
Radio Giờ Của Mẹ - Giờ Bình An - Giờ Tin Yêu - Giờ Hy Vọng
(714) 265-1512. Email: Kim Hà
banner
Skip Navigation Links.
Expand <span onmouseover='TreeView_ToggleNode_Hover(this)' onmouseout='TreeView_ToggleNode_Out(this)'>Tài Liệu Về Đức Mẹ</span>Tài Liệu Về Đức Mẹ
Expand <span onmouseover='TreeView_ToggleNode_Hover(this)' onmouseout='TreeView_ToggleNode_Out(this)'>Đức Mẹ Việt Nam</span>Đức Mẹ Việt Nam
Lòng Thương Xót Chúa
Mục Bác Ái / Xin Giúp Đỡ Vn
Expand <span onmouseover='TreeView_ToggleNode_Hover(this)' onmouseout='TreeView_ToggleNode_Out(this)'>Tiểu Mục</span>Tiểu Mục
Expand <span onmouseover='TreeView_ToggleNode_Hover(this)' onmouseout='TreeView_ToggleNode_Out(this)'>Đề Mục Chính</span>Đề Mục Chính
Gallery
Expand <span onmouseover='TreeView_ToggleNode_Hover(this)' onmouseout='TreeView_ToggleNode_Out(this)'>Tác Giả Và Tác Phẩm</span>Tác Giả Và Tác Phẩm
Google Search
memaria www  

Local Search
PayPal - The safer, easier way to pay online!
tin lợi ích :: tài liệu và mẹo vặt y học
Thay đổi kích cỡ chữ đọc:
  
Methi Seeds Trị Bệnh Tiểu Đường
Thứ Hai, Ngày 6 tháng 12-2010

Cỏ ca ri
LTS: Các gói hạt này được bán trong các tiệm Ấn Độ, một gói giá $2.50. Một vài tiệm nằm trong khu nhà hàng Vân, đường Brookhurst, Garden Grove, California. Hơi đắng nếu pha nhiều nhưng cũng dễ uống, nên rang hạt trước khi uống.

Cỏ ca ri hay hồ lô ba (danh pháp khoa học: Trigonella foenum-graecum) là một loài cây thuộc về họ Đậu (Fabaceae). Cỏ ca ri được sử dụng như là cây thuốc (phần lá) cũng như một loại gia vị (phần hạt). Nó được trồng rộng khắp trên thế giới như là một loại cây trồng bán khô hạn.

Tên gọi khoa học của cỏ ca ri là foenum-graecum có nguồn gốc từ tiếng La tinh để chỉ "cỏ khô Hy Lạp".

Zohary và Hopf lưu ý rằng người ta vẫn chưa chắc chắn nòi giống hoang dã nào của chi Trigonella đã tiến hóa để trở thành giống cỏ cải được con người trồng, nhưng tin rằng nó được đem vào gieo trồng lần đầu tiên tại khu vực Trung Cận Đông. Các hạt cỏ ca ri hóa than đã được phục hồi tại Tell Halal, Iraq (với niên đại cacbon phóng xạ là khoảng năm 4000 TCN) và tại các tầng thuộc thời kỳ đồ đồng ở Lachish (Shephelah, Israel), cũng như các hạt khô tìm thấy trong mộ của Tutankhamen [1]. Cato Già liệt kê cỏ ca ri cùng cỏ ba lá và đậu tằm như là các cây trồng để nuôi bò (De Agri Cultura, 27).

Các hạt cỏ ca ri màu vàng hay hổ phách, hình thoi, nói chung hay được sử dụng trong việc làm các món ngâm, bột ca ri khô và nhão, và nói chung hay bắt gặp trong các món ăn của ẩm thực Ấn Độ. Các lá non và chồi cỏ ca ri cũng được sử dụng làm rau ăn còn lá tươi hay khô được dùng để tạo hương vị trong nhiều món ăn khác. Các lá khô (người Ấn Độ gọi là kasuri methi) có vị đắng và mùi mạnh đặc trưng.

Tại Ấn Độ, các hạt cỏ ca ri được trộn với sữa chua và được dùng làm dầu dưỡng tóc. Nó cũng là một thành phần để sản xuất khakhra, một loại bánh mì. Nó được sử dụng trong injera/taita, một loại bánh mì chỉ có trong ẩm thực Ethiopia và ẩm thực Eritrea.

Từ để chỉ cỏ ca ri trong tiếng Amhara là abesh (ኣብሽ), và tại đây nó được dùng làm cây thuốc để điều trị bệnh đái tháo đường. Nó đôi khi cũng được dùng như một thành phần để sản xuất một loại bơ (tiếng Amhara: qibé, Tigrinya tại Ethiopia và Eritrea: tesme), và nó là tương tự như ghee trong cách nói của người Ấn Độ. Tại Thổ Nhĩ Kỳ, tên gọi của cỏ ca ri (çemen) cũng là tên gọi cho một loại bột nhão sử dụng trong pastirma (một món thịt bò ướp gia vị và đem phơi khô trong không khí). Tại Yemen, nó là gia vị chính và là một thành phần thêm vào món ăn dân tộc gọi là saltah. Sự tương tự giữa từ hulba trong tiếng Ả Rập và từ huluba trong tiếng Trung quan thoại biểu lộ tầm quan trọng của cỏ ca ri trong lịch sử. Cỏ ca ri, hay Şambélilé trong tiếng Ba Tư, là một trong bốn cây thuốc được sử dụng trong đơn thuốc của người Iran là ghormeh sabzi.

Tại Ai Cập, các hạt cỏ ca ri được dùng như chè.

Các hạt cỏ ca ri là nguồn giàu polysacarit galactomannan. Nó cũng là nguồn chứa các saponin như diosgenin, yamogenin, gitogenin, tigogenin và neotigogen. Các thành phần hoạt hóa sinh học khác còn có chất nhầy, tinh dầu và các ancaloit như cholin và trigonellin.

Hiệu ứng phụ khi sử dụng, thậm chí chỉ một lượng nhỏ cỏ ca ri (ngay cả khi pha loãng với nước) là mùi xi rô phong hay ca ri trong mồ hôi và nước tiểu, do hợp chất thơm sotolon gây ra. Cỏ ca ri cũng hay được dùng trong sản xuất chất tạo mùi cho các loại xi rô nhân tạo. Hương vị của cỏ ca ri nướng là do các pyrazin thay thế, giống như thì là Ai Cập (Cuminum cyminum). Tự bản thân nó thì nó có vị hơi đắng.


Hạt cỏ ca ri khôCỏ ca ri được sử dụng chủ yếu là hỗ trợ tiêu hóa. Nó là lý tưởng để điều trị rò xoang, sung huyết phổi, giảm viêm nhiễm [3]. Nó cũng được sử dụng trong vai trò của chất làm tăng tiết sữa cho các bà mẹ đang nuôi con bú. Nó có thể được tìm thấy trong dạng viên nang tại các hiệu thuốc thực phẩm[2].

Việc sử dụng hạt cỏ ca ri cho thấy nó có tác dụng hạ cholesterol, triglyxerit và các lipoprotein có tỷ trọng thấp ở người và các vật mẫu thực nghiệm (Basch và ctv., 2003). Several human intervention trials chứng minh rằng các hiệu ứng chống đái tháo đường của hạt cỏ ca ri cải thiện phần lớn các triệu chứng trao đổi chất có liên quan tới đái tháo đường kiểu 1 và kiểu 2 ở cả người lẫn các động vật thực nghiệm (Basch và ctv., 2003; Srinivas, 2005). Hiện tại, nó đã có bán dưới dạng viên nang theo các đơn thuốc như là chất bổ sung ăn kiêng để kiểm soát bệnh đái tháo đường và cao cholesterol.

Trong một số thí nghiệm gần đây, hạt cỏ ca ri có tác dụng chống lại ung thư vú (Amin và ctv., 2005) và ruột kết (Raju và ctv., 2006). Các tính chất bảo vệ gan của hạt cỏ ca ri cũng được thông báo trong một vài vật mẫu thực nghiệm (Raju và Bird, 2006; Kaviarasan và ctv., 2006; Thirunavukarrasu và ctv., 2003).


Hạt cỏ cà ri ( Fenugreek seeds )


Đây là toa thuốc có người đã dùng :

METHI SEEDS TRỊ BỆNH TIỂU ĐƯỜNG

-1 muổng nhỏ (muổng cà phê) hột methi seeds cho vào bình thủy nước sôi, (pha như pha trà ) rồi chế ra uống như uống trà cả ngày. Uống hết nước đầu thì chế thêm nước sôi pha lần thứ 2 cho đến khi nào hột methi seeds nhạt hết, không còn mùi vị thì đổ xác đi.

Mỗi ngày pha uống 1 muỗng nhỏ thôi. Uống chừng 2, 3 ngày là có kết quả, nhưng vẫn tiếp tục uống như uống nước trà mỗi ngày. Khi nào hết bệnh thì bớt lại pha nửa muỗng methi seeds thôi.

Trong thời gian uống nước Methi seeds này, đường có giảm nhưng phải cẩn thận. Vẫn cố gắng kiêng cử và tập thê dục đều.

(Các bạn tham khảo cẩn thận và tùy ý sử dụng tài liệu này, nhưng hạt này không thay thế được thuốc trị liệu. Quý vị cần nghiên cứu thật kỹ, cân nhắc liều lượng, tham khảo ý kiến thêm với bác sĩ Đông hoặc Tây Y trước khi có quyết định dùng để tránh những đáng tiếc có thể xảy ra do tình trạng sức khỏe , do phản ứng cơ thể khác nhau của mỗi người. )

Print In trang | sendtofriend Email | back Trở về
  
Tin/Bài mới
Những Điểm Lợi Ích Của Trái Chanh (12/17/2010)
Nghệ Thuật Sống Khỏe (12/15/2010)
Tác Hại Của Ăn Tối Muộn (12/15/2010)
Lời Chúc Mừng Giáng Sinh (12/13/2010)
Đậu Bắp - Vị Khắc Tinh Của Bệnh Tiểu Đường (12/13/2010)
Tin/Bài khác
Mười Thói Quen Hại Óc Nhất (12/2/2010)
Dấu Hiệu Cảnh Báo Các Bệnh Hiểm Nghèo (11/23/2010)
Bài Thuốc Hữu Hiệu Để Giảm : Máu Cao, Mỡ Cao, Cholesterol… (11/15/2010)
Khoáng Chất Trong Cơ Thể (11/3/2010)
Trí Nhớ Giảm Sút Phải Làm Sao? (10/22/2010)
MeMaria.org -- Từ 15/4/1999 lần truy cập -- Kim Hà [Valid RSS]
Copyright © 2011 www.memaria.org. All Rights Reserved. Powered by VNVN System Inc.
Best view with IE 7.0, Fire Fox, resolution 1024x768