Giới luật yêu
thương
Trước
khi ra đi chịu chết, Chúa Giêsu đã gửi gấm những
tâm sự cuối cùng cho các môn đệ. Ngài đã trăn
trối cho các ông, cũng như cho chúng ta một sứ
điệp quan trọng mà mỗi người phải
đem ra thực hành trong cuộc sống. Ngài nói:
- Các con thân mến, Thầy
chỉ còn ở với các con một thời gian ngắn nữa
mà thôi, nên Thầy ban cho các con một điều răn mới,
đó là các con hãy yêu thương nhau, như Thầy đã
yêu thương các con.
Như chúng
ta đã biết: giới răn thứ nhất đó là lòng
kính mến đối với Thiên Chúa. Tuy nhiên, giới
răn thứ hai cũng quan trọng như giới răn
thứ nhất, đó là tình yêu thương đối với
anh em. Thế nhưng, nếu kiểm điểm lại cuộc
sống, chúng ta thấy mình đã thực hiện hai giới
răn ấy như thế nào? Bởi vì tất cả
đều xuất phát từ lòng mến Chúa và tình yêu
người. Tất cả mọi lời khuyên nhủ và
ngăn cấm cũng chỉ là kết quả
đương nhiên của hai giới răn ấy mà thôi.
Đúng thế,
nếu chúng ta thực sự yêu thương anh em, hẳn
chúng ta sẽ không còn thù oán và ghen tương, hẳn chúng ta
sẽ sẽ không còn nói hành và nói xấu, hẳn chúng ta sẽ
không còn gian tham và bất công. Trái lại, trong mọi hoàn cảnh,
chúng ta đều cố gắng chia sẻ và giúp đỡ
họ. Trong chiều hướng đó, chúng ta mới hiểu
được lời nói sâu xa của thánh Augustinô:
- Ama et fac quod vis,
nghĩa là hãy yêu và hãy làm điều mình muốn.
Sở
dĩ như vậy, vì tất cả những hành động
xuất phát từ tình yêu thương đều có giá trị
riêng của chúng. Không phải chỉ trong ngày sau hết
chúng ta mới bị xét xử về tình yêu thương, mà
hơn thế nữa, ngay từ bây giờ tình yêu
thương đã trở thành dấu chỉ của người
môn đệ Chúa. Không có tình yêu, thì mọi hành động
chỉ là tiếng não bạt ầm vang, nhọc nhằn mà
chẳng nên công cán gì. Chính vì thế, Chúa Giêsu đã phải
nhấn mạnh:
- Người ta cứ dấu
này mà nhận biết các con là môn đệ Thầy, là các
con yêu thương nhau.
Như vậy,
tình yêu thương vừa là một điểm đặc
sắc nhất của người Kitô hữu, vừa là một
bảo chứng chắc chắn nhất cho niềm hạnh
phúc đời đời. Thực vậy, hẳn chúng ta
còn nhớ lời Chúa phán trong ngày phán xét. Với những
người lành, Ngài bảo:
- Hỡi những kẻ
đã được Cha Ta chúc phúc, hãy đến lãnh lấy
phần thưởng đời đời đã được
sắm sẵn cho các ngươi từ muôn ngàn thuở
trước, vì khi Ta đói, các ngươi đã cho ăn. Khi
Ta khát, các ngươi đã cho uống, Khi ta mình trần,
các ngươi đã cho mặc. Khi Ta đau yếu và bị
cầm tù, các ngươi đã viếng thăm.
Vậy lúc
này đây, chúng ta đang thuộc về nhóm người
nào: nhóm người lành hay nhóm kẻ dữ? Nhóm chiên hay nhóm
dê? Nhóm ở bên phải hay nhóm ở bên trái? Nhóm được
chúc lành hay nhóm bị chúc dữ? Nhóm được ân
thưởng hay nhóm bị trừng phạt? Từ đó, hẳn
chúng ta đã nhận ra điều gì cần phải làm
ngay? Đó là tình yêu thương. Điều ấy tuy dễ
dàng, nhưng lại vô cùng quan trọng,bởi vì nó sẽ ấn
định số phận đời đời của mỗi
người chúng ta. Tuy nhiên, yêu thương bằng miệng
lưỡi, bằng lời nói mà thôi chưa đủ,
điều quan trọng và cần thiết, đó là phải
biểu lộ tình yêu thương ấy bằng những
việc làm cụ thể.
Bác tài xế
của Đức Thánh Cha Phaolô VI kể lại rằng:
Có một cụ
già chẳng may bị mất một con lừa. Cụ ta bèn
viết thư xin Đức Thánh Cha giúp đỡ, lúc bấy
giờ ngài mới chỉ là một vị Tổng Giám Mục.
Sau khi biết được giá mua của một con lừa,
ngài liền gửi số tiền ấy cho cụ già. Là một
vị Hồng Y, bận rộn nhiều công chuyện lớn
lao, thế mà ngài vẫn không quên những nhu cầu nhỏ
bé cần phải giúp đỡ cho những kẻ bất hạnh.
Chính vì những hành động nhỏ bé này mà người
ta xác định được tình yêu thương chân
thành của người Kitô hữu. Một linh mục ở
Milan cũng đã nhận xét: Tôi thường thấy đức
Hồng Y quỳ gối chăm sóc cho những người
nghèo túng và bệnh tật.
Với chúng
ta cũng vậy, Hãy biểu lộ tình yêu thương của
chúng ta đối với những người chung quanh bằng
những việc làm cụ thể, bởi vì chính những
việc làm cụ thể này sẽ là như một tấm
vé để chúng ta được đón nhận vào Nước
Trời.