PHẦN V: NHỮNG NHÂN ĐỨC MÀ CHA GIOAN THƯỜNG LUYỆN TẬP
Lòng Tin, Cậy, Mến của Cha Gioan
1. Đức Tin của Cha
Gioan
Đức tin là nền tảng, là
nguồn gốc các nhân đức khác. Người nào
mạnh tin thì trông cậy vào Chúa, và tuân giữ các
điều răn cách trọn hảo. Ai càng mạnh tin bao
nhiêu lại càng trông cậy vững vàng, yêu mến thiết
tha và tuân giữ các điều răn nghiêm nhặt hơn
bấy nhiêu. Cha Gioan có lòng tin mạnh mẽ, đức tin
của cha như đuốc cháy sáng trong lòng, nên cha thấy
những điều trong đạo là thật, là phải
lẽ. Có một người nhân đức xứ Ars nói:
- Cha Gioan tin các
điều trong đạo cách mạnh mẽ như
mắt cha đang xem thấy những điều ấy
trước mắt cha. Nhất là cha tin Chúa Giêsu đang
ngự trong Bí tích Thánh Thể, lúc đó đức tin thêm
sức cho cha nên dù cha yếu nhọc, kiệt sức nói
không ra tiếng, nhưng nói đến Chúa Giêsu trong phép Thánh
Thể thì cha giảng lớn tiếng như người
khỏe mạnh.
Cha giảng: "Than ôi! Chúng ta có phúc dường bao khi xem thấy
Chúa Giêsu ngự trong phép Thánh Thể. Nếu như chúng ta có
lòng tin mạnh mẽ, mắt linh hồn chúng ta sẽ
được xem thấy Chúa Giêsu tỏ tường, vì có
linh mục đã được xem thấy Chúa nhãn tiền
lúc dâng lễ, còn chúng ta vì yếu tin nên chỉ xem thấy
Người mờ mờ, như trông thấy một
người ở xa vậy".
Hôm khác cha giảng:
"Ai
không có đức tin người đó mù tối trong linh
hồn còn hơn những người mù thân xác nữa, vì
thế gian là chốn tối tăm, đầy dẫy
sương mù che phủ khắp mặt đất, còn
đức tin như cơn gió đánh tan sương mù
ấy làm cho mặt đất quang đãng. Người
ngoại đạo, người không có đức tin luôn
sống giữa sương mù mờ mịt, còn
người có đạo nhờ đức tin soi trí
mở lòng nên luôn ở nơi sáng tỏ".
Khi cha Gioan còn trẻ đã học
ít, đến lúc làm linh mục cha càng ngăn trở
bởi trăm nghìn công việc nên không có thời giờ
học. Hơn nữa trí óc cha lại tối tăm,
chậm hiểu nhưng nhờ cha mạnh tin và lấy
đức tin làm mẫu mực cho các việc làm nên cha
trở thành người khôn ngoan, thông biết những lý
lẽ cao siêu, xử trí những việc rắc rối,
trắc trở mà những người khôn ngoan thông thái
không thể giải quyết được. Đó là
nhờ đức tin mở trí khôn ngoan cho cha ngày càng
rộng càng sáng. Có người hỏi cha:
- Ai được gọi
là người mạnh tin?
Cha trả lời:
- Ai tâm sự nói năng
với Chúa như khi ta nói chuyện với nhau, đó là
người mạnh tin.
2. Đức Cậy của
Cha Gioan
Cha Gioan luôn trông mong khát khao phúc thiên
đàng, khi cha nói đến phúc ấy và những thanh nhàn
vui vẻ đời sau, ai ai cũng đều mong chết
ngay để được lên thiên đàng. Một linh
mục giúp xứ Ars nói:
- Tôi
được nghe cha Gioan khuyên bảo người hấp
hối hai lần. Khi nghe thấy những kiểu cách và
những lời sốt sắng thiết tha cha nói về
phúc thiên đàng và những sự thanh nhàn đời
đời vui vẻ thì người hấp hối và
những người có mặt ở đấy không còn
muốn sống nữa, chỉ muốn chết để
được lên thiên đàng hưởng hạnh phúc ngay
lập tức.
Dù khi nghĩ đến sự
chết, sự phán xét, cha Gioan sợ hãi kinh khiếp
nhưng cha vẫn luôn luôn trông mong và khát khao chết.
Người thế gian sợ chết bao nhiêu thì cha
ước ao và mong chết bấy nhiêu. Có nhiều lần,
cha ước ao có nhiều thì giờ thong thả
để viết sách nói về sự chết là sự
tốt lành, êm ái dịu dàng và vui mừng biết chừng
nào. Cha hay giảng về phúc thiên đàng và khuyên
người ta phải ước ao chết cho
được lên thiên đàng:
"Chết
là thế nào? Chết là linh hồn ra khỏi thân xác hèn
mọn này để hợp làm một với Thiên Chúa là
Đấng tốt lành vô cùng. Những người kính
mến Thiên Chúa thật lòng, luôn ước ao khao khát
kết hợp làm một với Người, những ai
sợ chết là người không có lòng yêu mến Thiên Chúa
thật, vì người có lòng yêu mến thật sẽ
ước ao chết để được
hưởng nhan Thiên Chúa và kết hợp nên một với
Người đời đời".
Cha giảng tiếp:
"Người
nào yêu chuộng sự gì thì lòng họ luôn hướng
đến điều ấy. Người kiêu ngạo háo
danh cùng tham lam chức quyền sang trọng ở thế
gian này. Người hà tiện ước ao của cải
vàng bạc đời này. Người mê dâm dục
ước ao sự vui sướng xác thịt. Còn
người lành, người nhân đức chỉ trông
mong kính mến Chúa và ước ao được lên thiên
đàng để hưởng thánh nhan Chúa thôi. Nếu
như chúng ta năng suy ngắm và ước ao phúc vinh
hiển trên thiên đàng, chúng ta sẽ coi mọi sự vui
thú đời này là hèn hạ, đáng chê ghét. Ngày xưa Thánh
Têrêxa được xem thấy thiên đàng chỉ trong
chốc lát mà thánh nữ hạnh phúc sung sướng quá
sức, miệng lưỡi không thể nào diễn tả
được và coi mọi sự đời này như
rơm rác không màng đến nữa. Thiên đàng là nơi
thanh nhàn, là chốn thái bình, quê hương những
người con của Thiên Chúa, là nơi gồm mọi
hạnh phúc đích thực. Để được lên
thiên đàng cần phải sạch mọi tội lỗi,
phải xa lánh mọi phù hoa thế gian để kính
mến Thiên Chúa hết sức hết trí lòng mới
được".
3. Đức Mến của
Cha Gioan
Cha Gioan yêu mến Chúa thế nào chúng
ta không thể tả xiết. Cả cuộc đời
của cha và nhất là trong ba mươi năm sau hết,
cha chú tâm vào một việc duy nhất là yêu mến Chúa
hết lòng hết sức và lo cho mọi người yêu
mến Chúa. Lòng trí cha luôn nhớ đến Chúa, mắt cha
như luôn xem thấy Chúa ở trước mặt, cha
mở miệng là nói về Chúa và tâm trí cha hằng than
thở với Chúa. Cha Gioan coi việc yêu mến Chúa làm
ngọt ngào vui sướng và cha sống được là
nhờ lòng yêu mến ấy, nên cha cho rằng những
người không yêu mến Chúa thật thiệt thòi, ngu
dại.
Có lần cha nói:
- Khi tôi nghĩ đến
những người không yêu mến Chúa, cả đời
họ không biết đến việc yêu mến Chúa bao
giờ, thì tôi coi người đó là người đáng
thương nhất.
Cha hay khuyên mọi người yêu
mến Chúa và làm mọi bổn phận vì lòng yêu mến Chúa:
- Ở thế gian
này chỉ có sự hiểu biết và yêu mến Chúa là
niềm vui thật. Chúng ta phải làm mọi việc vì lòng
kính mến Chúa và để làm đẹp lòng Người,
chứ đừng làm việc vì thói quen hay vì thế gian
kẻo mất hết công phúc. Sáng ngủ dậy, chúng ta hãy
dâng hết mọi việc sẽ làm, mọi sự khó
nhọc chúng ta sẽ chịu trong ngày hôm ấy cho Thiên Chúa.
Hãy năng nhớ Chúa hiện diện trước mặt
chúng ta và luôn xem thấy chúng ta và cùng làm mọi việc
với chúng ta. Khi biết rằng Chúa luôn xem thấy, luôn
ở với chúng ta và luôn yêu thương, đó là sự êm
ái dịu dàng an ủi chúng ta nhiều nhất.
Từ xưa đến nay, thánh nào
cũng có lòng yêu mến bí tích Thánh Thể cách riêng, cha Gioan
cũng vậy, cha có lòng yêu mến Thánh Thể cách lạ
lùng. Cha thường giảng về sự hiện diện
thật của Chúa Giêsu trong bí tích Thánh Thể, hay cha khuyên
bảo người ta yêu mến bí tích Thánh Thể. Khi nào
cha giảng về bí tích Thánh Thể, cha giảng cách say mê,
giảng lớn tiếng và lâu hơn mọi khi.
Những năm mới về xứ
Ars, cha Gioan còn thư thả vì người ta mọi nơi
chưa kéo đến xưng tội với cha, nên cha
chầu Thánh Thể suốt ngày. Giáo dân xứ Ars chưa
hề thấy cha nào chầu Thánh Thể sốt sắng và
lâu như thế nên rủ nhau đến xem. Bà Catharina coi
sóc viện cô nhi nói:
- Cha Gioan có lòng yêu
mến Bí tích Thánh Thể thật lạ lùng. Khi thiên hạ
chưa kéo đến xưng tội với người,
tôi thấy cha chầu Thánh Thể suốt cả ngày và khi
chầu cha chỉ quỳ gối, không hề ngồi hay
dựa vào đâu bao giờ.
Khi đọc kinh Nhật Tụng
trước bàn thờ, thỉnh thoảng cha lại
ngước lên nhìn nhà tạm, lúc đó người ta
thấy mặt cha rạng rỡ, vui mừng thì tin là cha
Gioan được xem thấy Chúa Giêsu. Những
người nhìn cung cách cha dâng lễ, đều tin
thật là cha được xem thấy Chúa Giêsu hiện
diện trên bàn thờ. Cha Gioan dâng lễ vừa phải,
không chậm quá cũng không mau. Ai ai cũng xem việc giúp
lễ cho cha Gioan là cao quý. Các linh mục, giáo dân,
người có chức quyền hay thường dân
đều tranh nhau giúp lễ cho cha Gioan.
Một người hay giúp lễ cho
cha Gioan nói:
- Cha
Gioan làm lễ nghiêm trang sốt sắng như thiên thần,
cha làm lễ không nhanh, không chậm. Trước khi cha
chịu lễ, lúc cha cầm Thánh Thể trên tay, đôi
mắt cha chăm chú nhìn vào Mình Thánh, miệng thầm kêu van
một lúc rồi mới ăn.
Khi cha giảng về Thánh Lễ,
ngài nói:
- Chúa Giêsu ngự
ở trên trời như thế nào thì khi linh mục
đọc lời Truyền Phép, Người cũng
ngự xuống bàn thờ như vậy. Ở thế gian,
người linh mục không thể hiểu được
việc dâng lễ là phúc cao trọng chừng nào, chỉ khi
nào lên thiên đàng họ mới hiểu được
điều đó thôi.
Người viết tiểu sử
cha Gioan nói:
"Có một lần tôi thấy
cha Gioan khóc lóc thảm thiết. Tôi chưa kịp hỏi,
cha liền nói: "Than ôi!
Linh mục nào biết mình mắc tội trọng mà dám làm
lễ là người khốn nạn, là người quái gở
biết bao. Không có trí khôn nào hiểu được tội
lỗi vị linh mục ấy nặng nề ghê gớm
thế nào. Cho nên tối nào trước khi đi ngủ,
tôi cũng đều đọc bảy kinh sáng danh
đền tội cho các linh mục làm lễ đang khi
mắc tội trọng. Tôi cũng dâng cúng tiền bạc
để các cha khác làm lễ hằng năm để
đền bù những tội lỗi ấy".
Cha hay khuyên bảo giáo dân siêng
năng rước lễ và cha hay giảng về ơn quý
trọng khi được kết hiệp với Chúa sau
khi rước lễ. Cha nói:
- Khi Chúa Giêsu tìm lương
thực nuôi dưỡng linh hồn người ta,
Người tìm khắp thế gian chẳng thấy vật
gì xứng đáng nên phải lấy chính Mình Người
làm lương thực nuôi dưỡng linh hồn
người ta. Chỉ suy điều ấy thôi thì
đủ biết linh hồn người ta quý trọng
dường nào. Vậy Mình Thánh, Máu Thánh Chúa Giêsu chính là
của nuôi linh hồn người ta. Ôi! Của ăn
ấy quý trọng dường bao! Những người có
lòng thanh sạch, sốt mến chịu lễ ở
đời này, đời sau được sáng láng trên
thiên đàng. Ai chịu lễ sốt sắng một
lần thôi cũng đủ đốt lửa kính mến
Chúa trong lòng mình và dễ dàng khinh chê mọi sự sang
trọng, mọi vui thú của thế gian. Cách đây vài
bữa, có một người sang trọng danh tiếng
đến xứ Ars, ông ăn năn trở lại,
xưng tội, chịu lễ sốt sắng. Ông là
triệu phú rất giàu có, sau khi xưng tội chịu
lễ xong, ông chia của cải của mình làm ba phần,
một phần để xấy cất nhà thờ, một
phần bố thí cho người nghèo, phần còn lại
để cho anh chị em cháu chắt, rồi từ bỏ
thế gian mà vào nhà dòng. Được kết hiệp
với Chúa là sự vui sướng trên hết các sự vui
sướng, thế gian này chẳng có sự vui
sướng nào sánh bằng. Sự hiệp lễ giúp chúng
ta chịu đựng được tất cả
những khốn khó xảy đến cho chúng ta trong
cuộc đời.
Cha lại nói:
- Ai
nấy hãy siêng năng rước lễ: Từ xưa
đến nay, những người được rỗi
linh hồn, nên trọn lành thánh thiện đều là
những người siêng năng cầu nguyện và
năng rước lễ.
Hằng năm đến tuần
lễ tổ chức lần lượt chầu Mình Thánh,
khi cha rao lịch, ngài hân hoan lấy lời sốt sắng
khuyên bảo giáo dân thờ phượng yêu mến Mình Máu
Thánh Chúa Giêsu:
- Trong
suốt tuần này, Chúa Giêsu không những ngự trong nhà
tạm nhưng Người ngự trên bàn thờ
để cho chúng ta được chiêm ngắm, tôn thờ
và để ban mọi ơn lành hồn xác cho chúng ta nên anh
chị em muốn xin gì thì sẽ được. Anh chị
em hãy giục lòng tin mạnh mẽ, yêu mến Chúa cho
thiết tha, chỉ tại chúng ta kém tin, kém yêu mến nên
chúng ta không được những gì chúng ta xin.
Mỗi ngày khi cha đọc kinh
Nhật Tụng, cha luôn suy ngắm những sự
Thương khó Chúa Giêsu. Lúc đọc giờ Matutinum, cha
suy Chúa Giêsu lo buồn đổ mồ hôi máu trong vườn
Giệtsêmani. Khi đọc giờ Tertia, cha suy Chúa Giêsu
đang vác Thánh giá. Khi đọc giờ Sexta thì suy Chúa Giêsu
chịu đóng đinh vào Thánh giá. Lúc đọc giờ Nona
thì suy việc Chúa Giêsu gục đầu xuống mà thở
hơi cuối cùng. Khi đọc giờ Vespera thì suy các môn
đệ tháo đanh và đem xác Chúa Giêsu xuống. Khi
đọc Completorium thì suy Chúa Giêsu phải táng xác trong hang
đá.
Cha trân quý một trăm năm
mươi thánh vịnh của vua David và coi những thánh
vịnh ấy sốt sắng hơn các kinh khác, cha nói:
- Tội
của vua David là tội có lộc, có ích cho ta: felix culpa. Vì
vua phạm tội nên mới đặt một trăm
năm mươi ca vịnh ấy.
Ngày Chúa Nhật, cha dành riêng
để thờ kính Ba Ngôi Thiên Chúa, ngày thứ hai cha dành
để thờ Chúa Thánh Thần và cầu cho các linh
hồn nơi luyện ngục, ngày thứ ba kính các thánh
Thiên Thần, ngày thứ tư kính Thánh Giuse và các thánh nam
nữ trên trời, ngày thứ năm thờ Chúa Giêsu
ngự trong Bí tích Thánh Thể, ngày thứ sáu kính những
sự Thương Khó Chúa Giêsu, ngày thứ bảy kính
Đức Trinh Nữ Maria.
Cha có lòng yêu mến Đức
Mẹ cách đặc biệt, cha hay dâng lễ nơi bàn
thờ của Đức Mẹ, nhất là vào các ngày
thứ bảy quanh năm, không bỏ ngày nào. Mỗi ngày,
khi đọc kinh tối trong nhà thờ, cha lần hạt
chung với giáo dân. Khi cha về nhận xứ Ars được
hai năm thì lập hội Mai Khôi để tôn kính
Đức Mẹ trong xứ của mình. Những
người vào trong hội ấy, khi nghe đồng
hồ báo, họ đọc một kinh Kính Mừng và
một câu than: "Kính mừng ngợi khen Trinh Nữ
Rất Thánh Maria là Mẹ Chúa Trời không mắc tội
tổ tông truyền".
Cha mua một cái đồng hồ
lớn đặt trên gác chuông nhà thờ để cả
xứ Ars khi nghe tiếng đồng hồ báo giờ thì đọc
những kinh trên. Cha thường khuyên mọi người
hãy trông cậy và yêu mến Mẹ Maria, và cha hay giảng
về quyền thế cao trọng và lòng thương yêu
loài người lớn lao của Mẹ Maria. Chẳng
mấy xứ mừng các lễ Đức Mẹ trong
năm trọng thể và sốt sắng cho bằng xứ
Ars, nên giáo dân các xứ chung quanh và những khách thập
phương kéo đến dự các lễ Đức
Mẹ ở xứ Ars đông như ngày hội.
Hằng năm, cha làm việc tháng
Đức Mẹ trong nhà thờ và hết mọi ngày trong
tháng ấy cha đều giảng. Cha lại có lòng trông
cậy Trái Tim Vô Nhiễm Mẹ Maria, cha luôn cầu xin Trái
Tim Vô Nhiễm Mẹ cầu bầu cho người có
tội và hay khuyên bảo mọi người cầu xin Trái
Tim Vô Nhiễm Mẹ trong tuần chín ngày cho người
cứng lòng được ăn năn trở lại. Cha
dâng cúng nhiều tiền bạc để xin làm lễ kính
Trái Tim Mẹ hằng năm.
Cha có lòng tôn kính và yêu mến các thánh
trên trời cách đặc biệt, cha hay xem hạnh các
thánh, hay lấy các truyện tích và việc các thánh làm mà
giảng dạy cho giáo dân. Nhưng trong số các thánh, cha
yêu mến và tôn kính Thánh Philomena cách riêng. Cha lập bàn
thờ để kính thánh nữ trong nhà thờ xứ Ars,
cha hay cậy trông và chạy đến cầu xin thánh
nữ, nên cha xin điều gì đều được
cả. Có nhiều người quả quyết:
- Thánh
Philomena hay hiện đến yên ủi thêm sức cho cha,
để cha chu toàn các việc bổn phận của mình.
Cha cũng có lòng thương các linh
hồn nơi luyện ngục, cha hay cầu nguyện làm
các việc lành giúp đỡ các linh hồn ấy. Cha
bắt chước Thánh Đaminh, chia các việc lành, các
công phúc của cha làm ba phần; một phần để
đền tội riêng của mình, một phần ý chỉ
cho người có tội, một phần cho các linh hồn
nơi luyện ngục.