PHẦN IV: CHA GIOAN VIANNEY CHỮA BỆNH PHẦN XÁC, PHẦN HỒN
Cha Gioan Chữa Bệnh Phần
Hồn
hánh Tôma dạy: "Làm cho
người dữ dằn trở nên hiền lành và
người có tội trở nên thánh là việc quan
trọng và khó khăn nhất, chỉ có ai được ơn
Chúa giúp sức mới làm được việc
ấy".
Cha Gioan có ơn Chúa giúp nên đã làm
các việc ấy từ khi cha mới chịu chức linh
mục cho đến khi qua đời, và cha làm việc
ấy cách cẩn thận chu đáo, vì từ xưa tới
nay không có mấy vị thánh làm cho nhiều người
tội lỗi ăn năn trở lại với Chúa cho
bằng cha Gioan. Cha luôn ước ao mong mỏi
người có tội ăn năn trở lại, cha luôn
tìm phương cách để người có tội ăn
năn trở lại và sống nhân đức, cha dùng
hết mọi tài năng, sức lực của mình mà làm
việc đêm ngày, không tiếc công, chẳng quản khó
nhọc.
Cha luôn nhắc nhở:
- Chúng ta phải cầu
nguyện cho người có tội ăn năn trở
lại, vì người lành, người nhân đức
được hưởng nước thiên đàng, các linh
hồn nơi luyện ngục sớm muộn cũng
sẽ lên thiên đàng, còn người tội lỗi sẽ
sa hỏa ngục nên chúng ta phải siêng năng cầu
nguyện cho họ được ăn năn trở
lại. Nếu chúng ta siêng năng cầu nguyện cho
họ, chúng ta sẽ cứu được nhiều linh
hồn không kể xiết. Các việc lành phúc đức
chúng ta làm với ý ngay lành thì đẹp lòng Chúa lắm và
sinh công phúc cho mình, nhưng chẳng có mấy việc
tốt lành làm sáng danh Chúa và làm ích cho người ta bằng
lời cầu nguyện cho người có tội.
Chính cha Gioan làm gương trong
việc cầu nguyện cho người có tội và lúc nào
cũng thúc dục mọi người, nên người có
tội ở khắp tứ phương thiên hạ kéo
đến Ars quanh năm. Có một người đạo
đức, quê ở xứ Ars, đã chứng kiến và ghi
chép các việc cha làm, ông nói:
- Cha luôn cầu nguyện
đêm ngày cho người có tội, nên như có ơn Chúa
bắt ép người có tội phải tìm đến cha.
Bình thường thì chủ chiên phải đi tìm con chiên
lạc để đem về nẻo chính đường
ngay, nhưng cha Gioan không phải đi tìm ở đâu
hết, chính Chúa soi trí mở lòng cho họ tìm đến
với cha, vì cha luôn cầu nguyện cho người có tội.
Cha luôn lo liệu cho người có
tội được ăn năn trở lại, ngài luôn
khao khát cho họ ăn năn đến nỗi chính ngài có
lần nói:
- Lạy Chúa nếu
đẹp lòng Chúa, con không muốn lên thiên đàng bây
giờ, con xin ở lại thế gian này cho đến
tận thế để giúp người có tội
được ăn năn trở lại.
Cha luôn tạ ơn Chúa vì đã
thương yêu, tuyển chọn cha để lo liệu
cho người có tội ăn năn trở lại. Cha làm
việc ấy hết sức tận tụy không ngại
khó nhọc, không những cha không kiêu hãnh mà lại lấy
việc ấy để hạ mình xuống, cha nói:
- Thiên Chúa vẫn dùng
những người yếu đuối, thấp hèn
để làm những việc Người đã
định. Thiên Chúa dùng tôi để cứu lấy linh
hồn người có tội vì tôi hèn mạt, dốt nát
hơn các linh mục khác. Nếu Chúa tìm được linh
mục nào kém tài và dốt nát hơn tôi thì Người
đã chọn người ấy, chẳng chọn tôi
đâu. Nhưng vì không có linh mục hèn hạ, dốt nát
như tôi nên Người đã chọn tôi.
Không ai có thể tính hết số
người có tội mà cha Gioan đã cứu
được. Hai năm trước khi qua đời, cha
nói với một linh mục nọ:
- Không ai có thể biết
bao nhiêu người có tội đã ăn năn trở
lại ở xứ Ars này, chỉ tới ngày phán xét thiên
hạ mới biết được điều đó.
Có ngày nhiều, có ngày ít, mỗi ngày
cha giải tội hơn kém một trăm người,
vậy mỗi năm cha giải tội được ba
mươi sáu ngàn năm trăm người, và cha giải
tội hơn ba mươi năm, như thế cha cứu
được nhiều người có tội biết
chừng nào. Chưa có linh mục nào giải tội nhiều
bằng cha Gioan.
Có đủ mọi hạng
người tìm đến với cha Gioan. Có người
ngay lành, có ý xưng tội và thật lòng ăn năn
trở lại cùng Chúa, vì nghe tiếng cha Gioan nhân đức,
có lòng thương yêu người có tội nên tự ý tìm
đến xưng tội. Cha không phải khó nhọc, không
tốn công khuyên bảo những người như
thế, vì cha thấy họ xưng tội cách khiêm
nhường và ăn năn thống hối tội mình. Cha
rất thương họ và lấy lời hiền lành,
sốt sắng mà an ủi khuyên bảo, nhiều khi cha khóc
lóc với họ rồi ban phép xá giải. Người nào
xưng xong và nghe lời cha khuyên bảo rồi thì vui
mừng, nhẹ nhàng.
Có một người khi xưng
tội xong, thấy lòng mình mừng rỡ hân hoan nên nói
với cha:
- Thưa cha, con xưng
tội với cha xong tâm hồn con vui mừng quá, nếu
như có ai cho con một ngàn quan con cũng không vui bằng.
Khi cha thấy người xưng
tội không tỏ vẻ ăn năn, cha khuyên bảo
thiết tha sốt sắng, làm cho tâm hồn những
người ấy xúc động, nhiều khi cha vừa
khuyên vừa khóc.
Hôm đó, cha Gioan giải tội cho
một người khô khan. Cha không thấy ông tỏ vẻ
gì ăn năn, lòng cứ trơ như đá, nên
động lòng thương cha bật khóc. Ông thấy cha
khóc, ngạc nhiên nên hỏi:
- Thưa cha, sao cha khóc?
Choa Gioan đáp:
- Cha khóc vì thấy con
tội lỗi nhiều quá mà chẳng ăn năn,
chẳng khóc.
Ông ấy thấy cha nói thế thì
xúc động, ăn năn trở lại.
Những tín hữu bình thường
và đạo đức, không có ngăn trở, không có
điều gì đau khổ phần hồn, phần xác,
không có việc gì riêng thì không mấy khi cha Gioan giải
tội cho những người ấy, một phần vì
cha vội, phần vì không có gì cần nên cha bảo họ
đi xưng tội với một linh mục khác.
Có một người đến
xứ Ars, không có ý xưng tội, không có lòng ăn năn
trở lại, ông ấy chỉ đến để
chiều lòng vợ con thôi. Vì người vợ nghĩ,
"Chồng mình khô khan, không đọc kinh cầu
nguyện, bỏ xưng tội rước lễ lâu
năm. Cha Gioan có ơn riêng Chúa ban, có tài khuyên nhủ
người có tội cứng lòng, nên phải rủ
chồng mình đến xứ Ars, may ra anh ấy ăn
năn trở lại". Hoặc có người nghe
tiếng cha Gioan có tài chữa được mọi
bệnh tật thì hồ nghi không tin, nên đến xứ
Ars để xem cho biết thực hư thế nào. Sau
hết, có nhiều người xấu nết ghét
đạo, ghét các linh mục nên nói liều: "Cha xứ
Ars chẳng làm được phép lạ, chẳng qua cha
chỉ dùng xảo thuật để bịp dân quê", nên
họ đến để bắt lỗi cha. Nhưng khi
đến nơi, không những không bắt được
cha Gioan lỗi gì mà lại bị cha Gioan bắt
được, nghĩa là cha lo cho họ được
ăn năn trở lại cùng Chúa.
Khi những người ấy vào
nhà thờ xứ Ars, nhìn thấy dung mạo và toàn thân cha
Gioan như toát ra hương thơm thánh thiện nên họ
đổi ý thay lòng, biết thật là cha chẳng làm phù
phép hay mưu chước gì lừa ai. Họ hỏi
thăm các điều về cha, biết các việc cha làm,
cách cha ăn ở, nhìn cha dâng lễ, nghe cha giảng cùng
thấy mọi người đón rước cha, từ
nhà ra nhà thờ và từ nhà thờ về nhà, thấy cha
khiêm nhường hiền lành, hòa nhã, yên ủi thương
xót mọi người, họ lấy làm lạ và vui thích
muốn ở lại lâu. Mới đầu họ
tưởng chỉ lưu lại một hai ngày, nhưng
sau ở lại bốn năm ngày, có khi cả tuần
lễ. Khi thấy mọi người tranh nhau xưng
tội với cha Gioan, họ cũng bắt chước mà
xưng tội với cha. Khi đã xưng tội và ăn
năn trở lại với Chúa, trở về nhà họ
mừng rỡ vui vẻ kể cho mọi người nghe
những gì mình xem thấy và hết lời ngợi khen nhân
đức cha xứ Ars.
Cha Gioan đã giải tội lâu
năm, giải tội cho đủ mọi hạng
người, nên ngài từng trải lắm. Cha thấu
suốt lòng người, biết người ta hay phạm
những tội lỗi gì và nết xấu nào. Người
ta nói ít, cha hiểu nhiều, chẳng cần phải
hỏi lại nên cha giải tội mau và nhiều
người. Hơn nữa, Chúa đã ban cho cha Gioan ơn mà
Người đã ban cho Thánh Vincentê khi xưa: "Khi trông
thấy ai thì đã biết mọi sự bí mật trong lòng
người ấy".
Nhìn người nào, chúng ta chỉ
biết hình dáng, mặt mũi người ấy thôi,
nhưng cha Gioan còn biết cả mọi sự trong lòng
người ấy. Cha còn biết linh hồn đó sạch
tội hay có tội, được bằng an hay lo
lắng bối rối. Không có gì bí ẩn trong tâm hồn mà
cha không biết.
Thỉnh thoảng, một hai
lần trong ngày, cha ở tòa giải tội hay ở phòng áo
nhìn ra những người ngồi trong nhà thờ, rồi
ra hiệu cho gọi người nọ, người kia vào
tòa giải tội. Những người mà cha gọi
như thế thường họ có nhiều việc
cần kíp, không đợi lâu được, hoặc là
người tội lỗi và đang gặp đau khổ
buồn phiền. Cha trông thấy và biết người
ấy đang gặp đau khổ, đáng thương nên
gọi họ vào tòa giải tội trước.
Có người khi xưng tội quên
tội nọ, giấu tội kia vì mắc cỡ, cha bảo
người ấy: "Con
xưng tội chưa hết, còn tội kia con phạm
năm ấy, ở nơi đó." Có người
cứng lòng, không chịu xưng ra các tội đã phạm
thì cha kể ra trước mặt người ấy
những tội trọng mà họ đã phạm từ khi
còn bé khiến người ấy phải thú nhận. Có khi
cha chỉ nhìn người ấy một lúc, họ cúi
đầu vâng phục cha, không thể cưỡng lại
được.
Ngày xưa, khi Thánh Phêrô vừa
mới chối Chúa xong, thấy Chúa quay nhìn mình, Thánh Phêrô
liền ăn năn khóc lóc tội lỗi mình, Chúa cũng
ban cho đôi mắt cha Gioan có sức mầu nhiệm làm cho
người có tội động lòng ăn năn trở
lại như vậy. Nhiều người tội lỗi
cứng lòng, quyết không ăn năn trở lại,
nhưng khi cha Gioan nhìn đến người ấy và
họ nhìn cha, ánh mắt đôi bên vừa gặp nhau thì
người ấy đổi ý ngay lập tức và
quyết tâm ăn năn trở lại cùng Chúa.
Không thể nào kể hết
những người có tội mà cha Gioan đã khuyên bảo
ăn năn trở lại, cũng như cha đã cứu
họ khỏi sa hỏa ngục. Sau đây là một vài
tích.
Trong những người cha khuyên
bảo ăn năn trở lại có một bà theo Tin Lành,
nổi tiếng kiêu ngạo. Bà nghe danh tiếng cha Gioan nên
đến xứ Ars vào dịp lễ sinh nhật
Đức Trinh Nữ. Bà đi thẳng vào nhà thờ, không
đọc kinh cầu nguyện, không trông lên bàn thờ, hai
mắt chỉ xem cha dâng lễ và giảng. Đến
chiều người ta thấy bà vào tòa giải tội.
Những người xứ Ars và các miền chung quanh
đều biết bà theo Tin lành và kiêu ngạo cứng lòng
lắm, nên họ để ý xem cha Gioan có khuyên bà ấy
ăn năn trở lại được không. Bà ấy
vào tòa giải tội một lúc lâu rồi đi ra. Hai ba
ngày sau lại thấy bà ấy vào tòa giải tội,
nhưng sau đó không thấy bà lên rước lễ.
Họ nghi ngờ không biết bà ấy có bỏ đạo
Tin lành mà ăn năn trở lại không.
Sau một tuần lễ, mọi
người thấy bà ấy lên rước lễ. Nhờ
ơn Chúa soi trí mở lòng, cũng như nhờ cha Gioan
khuyên bảo và cầu nguyện, bà ấy đã thay
đổi trở nên khiêm nhường thật, bà bỏ
đạo Tin Lành, tin mọi điều Giáo Hội dạy
và yêu mến Chúa còn hơn các tín hữu cũ nữa. Anh
chị em bà và người nhà bà theo đạo Tin lành, khi
thấy bà trở lại đạo Công giáo thì căm ghét bà
ấy nên bà phải bán nhà cửa ruộng nương
ở quê quán đến mua đất làm nhà ở làng Ars.
Sau đó, bà sống như một người tín hữu
ngoan đạo, nêu gương sáng cho mọi người,
và qua đời trong sự thánh thiện.
Một người Pháp tên Mai, nhà
vốn đạo gốc nhưng ông chỉ xưng tội
có một lần khi còn bé mà thôi, một phần là do cơn
loạn lạc cấm đạo, một phần bởi
cha mẹ chết sớm nên không ai chỉ bảo. Khi
trưởng thành, sang nước Ai cập, ông Mai bỏ
Công Giáo theo Do Thái Giáo. Khi trở về quê hương ông
bỏ Do Thái Giáo mà đi theo lạc giáo. Ông là người
thông minh, trí khôn sắc sảo, nổi tiếng thông thái vào
thời ấy. Sau khi theo người bạn cũ
đến xứ Ars, ông được ơn ăn năn
trở lại. Ông kể chuyện trở lại của
ông như sau:
"Tôi ở thành phố Lyon đã
tám ngày, hôm đó tôi lên xe lửa có ý đến tỉnh kia
vì có công việc. Trên xe lửa tôi gặp một
người bạn cũ rủ tôi đi đến Ars, ông
ấy nói:
- Bác đi với tôi
đến xứ Ars nhé, vì tôi nghe nói cha xứ ấy là
người có nhân đức lạ lùng và làm
được nhiều phép lạ.
Tôi nói ngay:
- Tôi không tin đạo,
cũng không tin ai làm được phép lạ.
Ông ấy bảo tôi:
- Anh cứ đến xem
thử, không những là anh tin đạo mà còn thấy cha
xứ làm được phép lạ nữa.
Tôi đáp:
- Tôi đố cha xứ Ars
làm cho tôi tin và trở lại đạo. Nếu cha làm
được điều đó, tôi sẽ tin cha làm
được phép lạ. Làng Ars nhỏ bé và nghèo nàn chẳng
có gì lạ, chẳng có gì hay mà phải xem. Nhưng tôi
sẽ đi để ông vui lòng và xem cha xứ Ars làm phép
lạ như thế nào.
Đến xứ Ars, tôi và
người bạn cùng trọ một nhà, ở chung
một phòng. Sáng sớm, người bạn đánh
thức tôi và nói:
- Tôi rất muốn
được dự lễ của cha xứ Ars. Anh vui lòng
vậy.
Tôi đáp:
- Từ khi chịu lễ
lần đầu tới giờ, tôi chưa bao giờ
dự lễ nữa và tôi cũng chẳng muốn dự
lễ làm gì. Ông bảo làm việc gì khác, tôi sẵn lòng làm
ngay, còn việc này thì tôi xin kiếu.
Người bạn tôi dỗ dành:
- Nếu anh không muốn
dự lễ vì yêu mến Chúa thì ít ra anh hãy dự lễ
để vui lòng tôi. Vì tôi ước mong điều này
từ lâu lắm. Xin anh hãy đi với tôi, tôi sẽ
liệu cho anh chỗ đàng hoàng và tiện thể anh
được nhìn thấy cha Gioan rõ ràng.
Tôi trả lời:
- Tôi không thèm dự lễ,
không thèm xem cha xứ Ars, tôi chỉ đi cho ông vui lòng thôi.
Khi tôi vào nhà thờ, người
bạn dành cho tôi một ghế nhìn về hướng phòng
áo. Tôi mới ngồi được một lúc thì thấy
phòng áo mở ra, và cha Gioan, cha chính xứ mặc áo lễ
đi ra nhà thờ dâng lễ. Lúc cha đi ngang qua tôi, cha nhìn
tôi và tôi nhìn cha. Hai ánh mắt vừa chạm nhau, tôi vội
cúi xuống không dám nhìn nữa. Đôi mắt cha như
thấu suốt tâm can tôi, nên tôi xấu hổ lấy tay che
mặt đi. Suốt giờ lễ, thân xác tôi quỳ yên
như tượng các thánh trên bàn thờ, không động
đậy một chút nào, nhưng lòng tôi xôn xao bối
rối quá sức, không sao diễn tả được.
Khi lễ vừa xong, tôi đứng
lên ra về. Lúc đi ngang qua cửa phòng áo, tôi nghe tiếng
cha xứ bảo mọi người ngồi trong phòng áo:
- Xin các ông các bà ra khỏi
đây.
Vừa nói cha vừa bước ra
cầm tay tôi dắt vào phòng áo và đóng cửa lại.
Bấy giờ, trong phòng áo chỉ có một mình tôi và cha
Gioan. Cha vẫn nắm tay tôi cách hiền lành thương
xót, còn tôi cứ cúi mặt xuống, không dám ngẩng lên nhìn
mặt cha. Được một lúc, tôi thưa với cha:
- Thưa cha, lòng con xôn xao
bối rối quá sức như có một gánh nặng
đang đè trên con.
Bấy giờ, cha lấy lời
dịu dàng mà nói với tôi:
- Con hãy vất gánh đó
đi. Con hãy bỏ gánh đó lại đây. Hãy quỳ
xuống xưng tội. Chúa Giêsu sẽ cất gánh nặng
trên mình con. Người sẽ yên ủi và ban bằng an cho
con như lời Người đã phán: "Hỡi
những ai khó nhọc và gánh nặng hãy đến cùng ta, vì
ta sẽ bổ sức và nâng đỡ cho".
Tôi nghe những lời dịu dàng
đầy thương xót đó thì bớt bối rối
và sợ hãi. Tôi quỳ xuống dưới chân cha xưng
thú hết mọi tội lỗi. Xưng tội xong, tôi
thấy nhẹ nhàng, tâm hồn bằng an ngay lập
tức. Cha yên ủi tôi và bảo:
- Con hãy tĩnh tâm chín ngày,
xin Thánh Philomena cầu bầu cho con được ăn
năn trở lại thật lòng.
Lúc xưng tội tôi không hề khóc,
vậy mà khi vừa sấp mình xuống trước bàn
thờ Thánh Philomena tôi khóc nức nở. Càng khóc bao nhiêu thì
tâm hồn tôi càng thanh thản bình an bấy nhiêu.
Ông Mai vâng lời cha Gioan tĩnh tâm
đúng chín ngày, sau đó ông xưng tội và chịu
lễ. Ông nói:
- Từ khi có trí khôn
đến nay, tôi chưa bao giờ cảm thấy bình an và
vui sướng như lúc này.
Vì ông Mai là người nổi
tiếng thông thái nên khi ông ăn năn trở lại ở
xứ Ars, mọi người đều biết. Sau khi
đã ăn năn trở lại, ông trở về quê quán,
bỏ hết mọi việc đời, chỉ chuyên lo
đọc kinh cầu nguyện, làm việc lành phúc
đức, được hai năm thì ông qua đời
bình an.
Năm 1852, một họa sĩ
rất khô khan tên là Phanxicô không hề đọc kinh dự
lễ, hầu như ông đã bỏ đạo. Một
người bạn rủ ông đến xứ Ars:
- Người ta đồn
cha xứ Ars giải tội suốt ngày đêm, làm phép
lạ chữa các bệnh tật, chúng ta hãy đi xem có
thật không?
Phanxicô nhạo bạn mình:
- Hay anh có ý đi xưng
tội chứ gì?
Người bạn đáp:
- Tôi đi xưng tội
cũng được, vì tôi vẫn quen xưng nên chẳng
ngại gì.
Phanxicô đáp:
- Anh muốn xưng kệ
anh. Khi anh xưng tội, tôi sẽ đi săn.
Ngày hôm sau, hai người lên xe
đến xứ Ars. Phanxicô đem theo súng và chó như
chuẩn bị đi săn. Hai ông đến xứ Ars vào
giữa trưa, đúng lúc ấy cha Gioan từ nhà thờ
về nhà xứ. Hai ông thấy rất đông người
quỳ chật hai bên đường đi, người
hôn áo, người hôn tay, xin cha chúc lành. Cả hai thấy
lạ nên đến gần để xem cho rõ. Cha Gioan
ngước nhìn Phanxicô và con chó, cha nói:
- Con chó của ông
đẹp lắm. Phải chi linh hồn của ông cũng
đẹp như nó.
Cha chỉ nói bấy nhiêu rồi
tiếp tục đi và chúc lành cho mọi người.
Nhưng lời cha nói chẳng khác gì như gươm
sắc đâm qua tâm hồn Phanxicô. Nghe lời ấy, ông
xấu hổ cúi mặt xuống, trong lòng bối rối
sợ hãi, chẳng còn nghĩ gì đến chuyện săn
bắn, ăn uống chơi bời nữa. Ông vào nhà
thờ đọc kinh cầu nguyện. Tối hôm ấy,
ông vào tòa xưng tội, ăn năn khóc lóc về tội
lỗi của mình. Sau khi đã ăn năn trở lại,
ông về nhà thu xếp mọi việc, xin vào một dòng tu
để đọc kinh cầu nguyện và hãm mình
đền tội trong suốt quãng đời còn lại.
Sau ba mươi sáu năm tu dòng, ông qua đời trong
sự thánh thiện, năm 1888.
Một người kia cứng lòng,
chẳng những không tin, không giữ đạo mà còn
phỉ báng, nói xấu đạo, cho rằng các linh mục
chỉ bày vẽ để lừa dối dân quê kiếm
tiền. Vợ con anh ta thì sốt sắng ngoan đạo.
Anh làm ngơ cho vợ con mình đọc kinh, xưng
tội, chịu lễ vì nghĩ rằng tôn giáo chỉ dành
cho đàn bà và trẻ con mà thôi, còn đàn ông có địa
vị, có học thức mà đọc kinh lần hạt
như đàn bà trẻ con thì không hợp, không đáng làm.
Khi anh nghe cha Gioan làm phép lạ chữa lành nhiều
người bệnh tật và khuyên bảo được
nhiều người ăn năn trở lại, anh cho là
cha phù phép, có bùa mê hoặc người ta và mưu mánh
đánh lừa dân ngu.
Năm ấy, vợ anh rủ
đến xứ Ars, anh bằng lòng đi ngay vì nghĩ là
có dịp để nhạo cười những
người có đức tin và những người
đạo đức. Đến xứ Ars, anh vào nhà
thờ như đi xem hát, không tỏ ra một chút tôn kính
nào. Khi thấy nhiều người quỳ chật cả
nhà thờ, họ đọc kinh lần hạt sốt
sắng, chen nhau vào tòa giải tội, anh lấy làm khó
chịu và khinh dể những người ngu đần và
càng trách móc cha xứ Ars là đã lừa dối thiên hạ
quá sức.
Đang khi anh đi đi lại
lại quan sát mọi việc trong nhà thờ, cha Gioan ở
trong tòa giải tội nhìn ra trông thấy anh, ngài ra dấu
gọi anh đến gần và bảo hãy theo cha vào phòng áo.
Anh lấy làm lạ, không biết cha có ý gì nhưng vẫn
đi theo. Khi vừa vào phòng áo, cha Gioan vừa nói vừa ra
dấu bảo anh quỳ xuống xưng tội, nhưng
anh không quỳ, cứ đứng như thế mà nói
với cha:
- Tôi không tin, tôi không xưng
tội.
Nhưng đôi mắt cha Gioan cứ
nhìn chăm chú vào anh khiến anh phải quỳ xuống.
Cha Gioan thấy anh đã vâng lời thì kể cho anh nghe
tất cả những tội anh đã phạm, bao nhiêu
lần, ở nơi nào. Anh nghe cha kể ra hết các
tội mình đã phạm cách rõ ràng thì quá bỡ ngỡ và
ngạc nhiên. Ngay lúc ấy, ơn Chúa tác động và vì
lời cha Gioan cầu nguyện, anh xưng thú tất cả
tội phạm với lòng thống hối, đau
đớn và thật sự dốc lòng chừa. Khi anh
đã xưng tội và làm các việc đền tội
xong, lúc đứng lên ra về, cha Gioan bảo anh phải
luôn luôn giữ tâm hồn trong sạch vì không bao lâu nữa
anh sẽ chết. Việc ấy xảy ra đúng như
lời cha Gioan đã báo trước. Sau đó một
năm, anh bị chết bất ngờ không kịp lãnh
nhận các bí tích sau cùng. Người vợ thấy
chồng mình chết bất ưng, sợ rằng chồng
mình không được rỗi linh hồn, nhưng khi
gặp cha Gioan, ngài nói:
- Con hãy yên lòng, chồng con
đã được rỗi linh hồn nhưng đang còn
ở luyện ngục. Con hãy chịu khó làm việc lành
để cứu linh hồn chồng con mau ra khỏi
luyện ngục, chóng về thiên đàng.
Những câu chuyện về
người ăn năn trở lại nhiều lắm
không kể hết được. Không phải chỉ có
nước Pháp thôi mà các nước khác đều có
người trở lại khi đến xứ Ars. Một
linh mục nói:
- Trong xứ của tôi, có
hơn mười người tội lỗi, cứng lòng
đã ăn năn trở lại ở xứ Ars.
Linh mục khác nói:
- Trong những giáo dân tôi coi
sóc, những người đi đến xứ Ars, đã
thấy cha Gioan, nghe cha giảng và xưng tội với cha
Gioan thì ngoan đạo và sốt sắng hơn những
giáo dân khác bội phần. Một điều rất
lạ là những người mà cha Gioan đã khuyên bảo
để ăn năn trở lại, họ giữ
được lòng sốt sắng và giữ đạo
vững vàng cho đến chết, không có mấy
người tái phạm.
Một linh mục kia nói:
- Trong xứ tôi, một
người rượu chè be bét đã hơn ba mươi
năm nay, không chịu nghe ai khuyên bảo, nhưng khi
đến xứ Ars, xưng tội với cha Gioan, ông ta
ăn năn dốc lòng chừa.Từ lúc ấy cho
đến giờ, ông không đụng đến một
giọt rượu nào nữa, lại còn trở nên một
người đạo đức sốt sắng, xưng
tội, rước lễ, một tháng một lần, làm
gương sáng khiến mọi người lấy làm
lạ.
Những người đến
xứ Ars, chỉ cần gặp cha Gioan một lần thì
đều cảm mến nhân đức của cha, luôn
nhớ đến cha, chỉ muốn đến xứ Ars
để gặp cha. Có nhiều người phải đi
xa lắm, vừa tốn thời giờ vừa hao phí
tiền bạc để đến xứ Ars một
năm, một hai lần. Điều ấy không có gì
lạ vì người khô khan gặp cha Gioan thì trở nên
sốt sắng, người có tội thì ăn năn
trở lại, người nhân đức thì càng thêm nhân
đức hơn. Hết thảy mọi người
đều hưởng nhờ ơn ích nơi cha Gioan.