Linh Địa
Đức Mẹ
Lm. Thu Băng, CMC
X. ĐỨC MẸ
HIỆN RA
TẠI LOURDE (LỘ ĐỨC),
NƯỚC PHÁP
Lộ Đức là một thành phố nhỏ thuộc
tỉnh Pyréné nước Pháp. Dân số chừng bốn ngàn người.
Phía sau thành phố là một triền núi khá cao
là ngọn Massabielle có nhiều động đá với cây
Tường-Vi rừng len phủ chằng chịt. Có
con rạch Gave chảy quanh, do nước mưa từ các
nơi chảy xuống. Chính nơi động
đá lớn này Đức Mẹ đã hiện ra với
chị Bernadette 18 lần trong năm 1858.
1. CUỘC ĐỜI CHỊ
BERNADETTE
Cha của Bernadete là ông Francis Soubirou và mẹ là bà Louis
Catero, sinh sống tại Lourde. Ông bà cho chào đời một ái nữ
đầu lòng (1844), đặt tên là Bernadete. Em bị bệnh suyễn ngay từ nhỏ, nên
thân thể phát triển rất chậm. Bernadete
rất tự nhiên, vui vẻ và cương quyết. Hay giận, nhưng cũng rất mau nguôi. Vì bệnh và trí khôn chậm, nên em không đi học
được. Nhưng về việc đạo thì
Bernadete rất sốt sáng, nhiệt thành và đạo đức.
Giữa lúc em đang dọn mình Chịu Lễ lần đầu,
thì ngày 11 tháng 2 năm 1858, Đức Mẹ đã hiện
ra với em. Từ đó cho đến ngày 16
tháng 7 năm 1858 (trong vòng 5 tháng), Đức Mẹ đã hiện
ra với em 18 lần, và cũng từ đó, Lộ Đức
là nơi xảy ra rất nhiều phép lạ. Sau các lần
Đức Mẹ hiện ra, Bernadete cảm thấy mình có sứ
mệnh đền tạ thay cho kẻ tội lỗi, và từ
đó em có ý tưởng đi tu. Bernadette đã vào dòng thánh Gildard ngày mùng 3 tháng 7
năm 1866. Sau những năm tập luyện
Bernadette được mặc áo dòng và đổi tên là
Maria Bernard. Trong nhiều năm sống nơi tu viện,
Chúa cất những niềm vui thiêng liêng mà trước
đây Chúa dành cho chị, lại để chị đi vào
con đường đen tối, gặp nhiều đau khổ
thử thách, chê bai, nhạo cười, để Bernard
thêm thánh thiện. Năm 1867 Chúa để chị
Bernard bị phong thấp nơi chân, nhưng chị vẫn
khuất phục cơn bệnh để tiếp tục
phục vụ đồng loại trong nghề Y Tá. Từ tháng 10 năm 1875, sức chị yếu dần,
không làm gì được nữa chị mới chịu nghỉ
việc và chị nhận "Chức vụ chính của
tôi là đau ốm". Mùa hè năm 1877, chân chị
phát chứng làm độc, rồi từ đó các
thương tích khác lại nổi lên khắp chân tay mình mẩy,
cho tới khi chỉ hấp hối giữa tuần Phục
sinh năm 1879, vừa lúc được 35 tuổi.
Năm mười
bốn năm sau khi qua đời, tức là ngày 8 tháng 12
năm 1933, chị được Đức Giáo Hoàng Piô 11
tôn phong lên bậc hiển thánh.
2. ĐỨC MẸ HIỆN RA
Vào
trưa ngày 11 tháng 2 năm 1858, Bernadette, Jeanne Abadie và Marie
Toinette cùng nhau tiến về bờ suối Gave nhặt củi.
Đến gần hang Massabielle, các em phải lội qua
giòng nước để sang bờ bên kia.
Hai bạn đã qua suối, còn Bernadette vì bệnh nên sợ
nước lạnh, cứ ngập ngừng chưa chịu
lội sang. Bernadette kể:
"Tôi đang định tháo giầy để lội
xuống nước, thình lình tôi nghe tiếng gió ù-ù thổi
mạnh như sắp có cơn bão lớn. Nhìn trước nhìn sau
không thấy gì, tôi tiếp tục cởi vớ để
lội qua suối, thì tiếng gió lại nổi lên.
Nhìn thẳng về hang núi, tôi thấy một thiếu nữ
rất xinh đẹp đứng đó, trạc độ
17 tuổi, mặc áo trắng dài che gần hết đôi
chân, mỗi đầu ngón chân là một bông hồng óng ánh.
Thiếu nữ thắt lưng xanh, tay
đeo tràng chuỗi, hạt trắng hạt vàng, giống
những bông hồng ở nơi chân. Trên
đầu trùm khăn trắng xoã xuống thân người.
Tưởng rằng nhìn lầm, tôi dụi mắt
nhìn lại nhưng vẫn thấy là bà ấy. Sợ
quá, tôi vội thọc tay vào túi lấy ra
xâu chuỗi và quì xuống lần hạt, xin Đức Mẹ
đến cứu giúp. Bà cũng lấy xâu chuỗi đeo
trên cách tay mình và bắt đầu lần
hạt với tôi. Lần hạt xong, Bà làm hiệu
cho tôi đến gần, nhưng sợ quá, tôi chạy vội
qua suối, quơ đống củi mà các bạn đã xếp
đống ở đó đem về nhà. Bà đẹp
biến đi và hai bạn cũng không hay biết chuyện
gì xảy ra cho tôi cả. Trên đường
về, thấy nét mặt của tôi khác thường, nên
Marie gạn hỏi mãi, nhưng tôi không chịu nói. Tới khi về gần đến nhà tôi mới
chịu thuật lại chuyện lạ đã xẩy ra cho
mình. Không giữ được bí mật,
em Marie đi nói cho mẹ nghe. Thế là
tôi bị quở trách nặng lời suốt buổi và mẹ
còn cấm chúng tôi từ nay không được đến
đó nữa".
Mãi đến hai ngày sau (14 tháng 2 năm 1858), như có
tiếng thúc bảo, Bernadette mới dám mở miệng xin mẹ
cho ra hang núi cùng với mấy người bạn đã
được nghe kể.
Năn nỉ mãi bà mới cho phép
đi. Thình lình Bernadette la
lên:
- Bà đến!
Bà đến rồi kìa.
Theo lời
người bạn bảo:
- Nước-Thánh
sẽ xua đuổi ma qủi hiện hình trêu ghẹo, nên
Bernadette đã lấy Nước-Thánh đem theo
rẩy lên bà. Bà đẹp chẳng sợ, lại
tỏ ra hài lòng và mỉm cười với mọi người.
Thế là người ta đoán là Đức
Mẹ hiện ra. Bernadette cầu nguyện sốt sáng
và bắt đầu ngất trí, mãi đến khi được
đưa về nhà Bernadette mới tỉnh. Tiếng đồn
lại càng lan rộng thêm về điềm
lạ ấy.
Lần thứ ba Đức Mẹ hiện ra ngày 18
tháng 2 năm 1858. Lần
này có nhiều người hơn theo
Bernadette để xem sự lạ. Bernadette đem theo giấy viết để xin Đức
Mẹ ghi những gì Mẹ muốn dạy, nhưng Đức
Mẹ không viết mà chỉ cho biết Bernadette sẽ phải
khổ nhiều ở trần gian, nhưng sẽ được
hạnh phúc trên trời. Mẹ lại xin
Bernadette trở lại gặp Mẹ 15 ngày liền nữa.
Ba lần hiện ra vừa qua chỉ là chuẩn
bị cho những lần hiện ra sau này.
Những lần hiện ra kế tiếp là những lần
Bernadette ngất trí và xuất thần, người xem chỉ
thấy những cử chỉ lạ nơi thân xác em, còn nội
dung chỉ được tỏ ra dần dần. Những lần này
cũng là để các vị liên hệ và nhà chức trách
kiểm chứng sự thể. Một vài lời dạy
Bernadette nhận được như:
- Các con
hãy cầu nguyện cho người tội lỗi ăn năn trở lại.
- Các con
hãy làm tròn bổn phận hàng ngày.
- Hãy cầu
nguyện cho những người cứng lòng tin, cho những
người cố tâm phá hoại Đạo Chúa, được
ơn thống hối ăn năn... .
- Hãy
ăn năn đền tội.
Lần
thứ 9 hiện ra, Đức Mẹ chỉ cho Bernadette lấy
tay cào bới chỗ đất khô
trước mặt em, để khơi nguồn một suối
nước có phép chữa bệnh cho những ai vững niềm
tin cậy.
Lần
thứ 10 (ngày 26 tháng 2 năm 1856), Đức Mẹ hiện
ra và truyền:
- Con hãy
hôn đất ăn năn thay cho người
có tội.
Bernadette
cũng làm hiệu cho mọi người cúi xuống hôn
đất ăn năn tội.
Lần
thứ 11 hiện ra, Đức Mẹ bảo Bernadette về
thưa cùng cha sở
- Xây cho Mẹ
một đền thờ ở đây để Mẹ thi ân cho nhân loại.
Chúa Nhật
ngày 28 tháng 2 năm 1858, trên 2000 người tựu lại
để xem sự lạ. Lần này Bernadette
thưa Đức Mẹ về chuyện đã xin với
cha sở xây nhà thờ như Mẹ dạy. Đức Mẹ mỉm cười với lời
thân thưa ấy.
Lần
thứ 14 Đức Mẹ nói:
- Mẹ
muốn người ta đến đây thăm viếng Mẹ.
Từ
đó con cái muôn phương trên thế giới đã đến
đây thăm viếng Mẹ không ngớt.
Lần thứ 15 Đức Mẹ chỉ hiện ra
cho Bernadette chiêm ngắm và không làm dấu lạ nào khác.
Lần
thứ 16 Đức Mẹ tỏ mình ra:
- Ta là
Đấng Chẳng Mắc Tội Tổ Tông.
Đây là lần thứ hai Đức Mẹ tỏ cho
nhân loại biết về ơn đặc biệt này của
Mẹ. (Lần thứ nhất Đức Mẹ đã tỏ
ra cho chị Catharine Labouré trong tu viện Rue Dubac, Paris).
Lần
thứ 17 một phép lạ xẩy ra là lúc Bernadette xuất
thần, tay đang cầm đèn cầy
cháy sáng, các bác sĩ thử nghiệm đã úp hai bàn tay
Bernadette lên ngọn lửa mà tay em không bị đốt
cháy.
Lần
thứ 18 cũng là lần hiện ra sau hết, Đức
Mẹ đến chỉ để an ủi
và mừng cho Bernadette trong ngày em được rước
Chúa Giêsu Thánh Thể vào lòng lần đầu tiên trong đời.
Tóm lại,
Đức Mẹ đã hiện ra với Bernadette cả thẩy
18 lần để nhắc nhở loài người:
Năng chạy đến với Mẹ, ăn năn đền
tội, lần hạt Mân Côi để làm nguôi đi cơn
thịnh nộ của Thiên Chúa vì tội lỗi nhân loại
đã xúc phạm đến Ngài. Ngoài ra còn để Mẹ
thi ân cứu giúp những ai chạy đến
cùng Mẹ nữa.
3. CÁC PHÉP LẠ
Sau đây xin được ghi lại mấy phép lạ
đã được Hội Đồng Giáo Luật
(Commission Canonique) công nhận.
Chị Dehant 29 tuổi, quê ở Gasves (nước Bỉ). Chị bị một vết
thương nơi chân phải từ lúc 17 tuổi. Vết thương sau đã biến thành ung độc
hôi thối và làm đùi chị bị co cứng lại.
Sức khỏe vì thế ngày một yếu dần.
Ngày 6 tháng 9 năm 1878, chị đến Bác
sĩ Y khoa Froidebise tại Ohey. Ông đã cho giấy chứng
như sau:
"Tôi
ký tên dưới đây là Gustave Froidebise, Bác sỹ Y khoa tại
Ohey chứng thực có khám bịnh cho chị Dehant, 29 tuổi
và nhận thấy chị đã trẹo xương nơi
chân mặt. Các bắp chân co rút lại nên ống
chân què và ung-độc phủ cả bắp đùi bên phải".
Lúc đến Lộ Đức, ai cũng thấy vết
thương này và rất khó chịu vì mùi hôi thối của
ung nhọt xông ra. Chị
tới hang đá vào ngày 10 tháng 9 năm 1878. Trong
năm ngày lưu lại đây, chị đã được
tắm nước suối hai lần. Đến
ngày 15 tháng 9 năm 1878, chị đã được lành bệnh
cách lạ lùng. Trong khi tắm, chị cảm
thấy chân đau đớn dữ dội; nhưng khi Y Tá
giúp thay băng mới thì chị thấy ung nhọt đã
lành da. Chị vui mừng tạ ơn
Đức Mẹ rồi đứng lên và đi được
không cần ai đỡ cả. Ngày 19 tháng 9 chị trở
về quê hương và xin Bác sĩ Froidebise khám lại: Quả
nhiên vết độc đã lành hẳn.
Tờ
báo L'Echo de Lourdes (Tiếng Vang Lộ Đức) năm 1918,
tường thuật câu chuyện sau: Một bác sỹ rất
giỏi nhưng lại vô thần đồng ý dẫn một
thiếu nữ tứ chi bất toại tới Lộ
Đức, khi ông bó tay không chữa được, khi cô ngỏ
ý sẽ đến Lộ Đức xin Đức Mẹ cứu
chữa. Nhiều lần ông cười nhạo Đức
mẹ và ông quả quyết:
- Tôi sẽ
theo cô sang Lộ Đức. Nếu tôi thấy
cô lành bệnh, nếu tôi thấy cô chỗi dẫy mà đi
được vì tìn vào Đức Mẹ của cô chữa,
thì tôi sẽ theo Đạo Công Giáo ngay. Nói thế
chứ làm gì xẩy ra chuyện đó được.
Tôi bảo đảm chuyện đó không xẩy
ra đâu.
Tại Lộ Đức, cô thưa chuyện với
cha Giải tội và xin cha cầu nguyện để Đức
Mẹ cứu ông Bác Sỹ này. Cô được xe chở xuống
bể nước tắm. Cha Bailly cũng đi theo. Lúc người ta giúp cô xuống hồ
nước tắm, ngài kêu lớn tiếng:
- Hỡi
anh chị em, có ai trong anh chị em sẵn sàng hy sinh để
cứu một người mất đức tin không? Ai
trong anh chị em sẵn sàng chịu bệnh vì Chúa để
người vô thần kia được
cứu rỗi không?
Một bệnh nhân chống nạng đến xin chấp
nhận chịu bệnh cho đến chết. Rồi một bà mẹ nâng đứa
con câm điếc lên và nói:
- Thưa
cha, cha hãy dâng đứa con câm điếc này cho Đức
Mẹ, để người bất hạnh ấy
được ánh sáng Đức tin.
Ngay lúc ấy, cô thiếu nữ tứ chi bất toại
liền được Đức Mẹ chữa khỏi. Cô đứng dậy và giơ hai tay cho người phục vụ kéo cô ra khỏi
bể tắm và bệnh của cô hoàn toàn được
lành. Người vô thần kia thấy thế
liền quì ngay xuống trước đám đông và kêu lên:
- Lạy
Chúa, con tin. Xin Chúa tha tội cho con.
Bà Hébert 51 tuổi, sinh trưởng ở Lisieur. Thân phụ bà mắc bệnh lao năm cụ được 63 tuổi.
Người anh họ của bà cũng chết vì bệnh lao lúc mới được 18 tuổi. Thân mẫu bà cũng chết vì bị sưng cuống
phổi năm cụ 62 tuổi. Bà Hébert
cũng đã bị nhiễm bệnh từ lúc 14 tuổi.
Bà phải uống dầu cá trong mùa hè để
cầm cự. Năm lên 38 tuổi bà bị sưng cuống
phổi, phải nằm nhà thương 4 năm trời.
Đến 42 tuổi bà thường bị mệt, ho ra máu
nhiều vì có nhiều vi trùng lao.
Bà được gia đình đưa đi kính viếng
Đức Mẹ Lộ Đức một lần trước
khi chết. Trên đường đi bà bị ho ra máu quá nhiều,
bà tưởng chết dọc đường.
Nhưng đến nơi, ngày 21 tháng 8 năm 1900, bác sĩ
thấy bà quá kiệt sức, liền khám bệnh cho bà và
cho hay phổi bà đã bị vi trùng Lao ăn lủng quá nhiều
chỗ, không hy vọng kéo dài sự sống được.
Mọi người đưa bà đến trước
hang đá nơi Đức Mẹ hiện ra, để cùng
với bà cầu nguyện cho bà được chết bình
yên. Cầu nguyện xong, bà lại nài nỉ
con cháu cho bà được tắm nơi suối phép lạ
một lần. Nể lòng mẹ, các con
phải đưa bà đi tắm. Vừa
đầm mình xuống nước, bà thấy trong mình
đau đớn dữ dội, nhất là phần ngực.
Nhưng ít phút sau sau đó bà thấy dễ chịu
và cảm thấy như mình có sức lại. Lên khỏi hồ tắm, bà qùi ngay xuống đó
tạ ơn Đức Mẹ đã chữa lành bệnh phổi
của bà. Bà không còn ho và khạc nhổ
như trước nữa. Bà bắt
đầu đói và thèm ăn.
Từ đó bệnh của bà hết luôn. Mặc dù bà làm việc nhiều
những cũng không bao giờ tái phát.
4. KINH KHẤN ĐỨC MẸ
LỘ ĐỨC
Lạy
Thánh nữ Đồng Trinh Ven Tuyền Lộ Đức,
Chúng con theo lời Mẹ dạy, chạy đến quỳ
dưới chân Mẹ, gần bên hang đá hèn mọn, là
nơi Mẹ đã thương hiện ra để chỉ
cho những người lầm đường lạc lối
con đường sám hối và cầu nguyện; Cùng phân
phát cho kẻ khốn-cùng những ơn thánh và sự lạ
do lòng từ bi cao cả Mẹ.
Ôi Nữ Vương nhân ái, xin hãy nhận lấy những
lời tán tụng và khẩn cầu của muôn người
muôn nước đang gặp cảnh sầu đau, lo sợ,
mà họ thành tín dâng lên Mẹ.
Hỡi Mẹ
là ánh hào quang thiên quốc, xin chiếu ánh sáng Đức Tin trên
những người lầm lạc. Xin hãy lấy
thiên hương Đức Cậy mà xoa dịu những tâm
hồn thống khổ. Ôi Maria nguồn
suối cứu rỗi vô tận, xin hãy kín múc nguồn tình
thương của Chúa mà tưới gội những tâm hồn
khô héo.
Xin ban cho
các con cái Mẹ, niềm an ủi trong cơn sầu khổ,
sự chở che trong cơn nguy khốn; được
nâng đỡ trong giờ giao tranh. Xin cho chúng con biết yêu
mến và phụng sự Chúa Giêsu dịu ngọt của Mẹ
đến cùng, hầu ngày sau chúng con cũng được
hưởng sự an vui đời đời
cùng Mẹ trên nước thiên đàng. Amen. (Đức
Thánh Cha Piô 12 soạn).