PHẦN I: SƠ LƯỢC TIỂU SỬ THÁNH GIOAN VIANNEY
Vua Napoleon
hi cuộc cách mạng Pháp bùng
nổ, Kitô giáo bị ngăn cấm cùng bách hại ba
bốn năm liền. Nhiều người lành và những
người chết vì đạo luôn kêu xin Chúa
thương đến Giáo hội hiện đang bị
kẻ dữ giết hại và phá bỏ mọi lề
luật cùng các quy tắc. Thiên Chúa dùng một viên
tướng tên là Bonaparte để tiêu diệt quân phá
đạo cùng sửa sang mọi sự trong nước. Vị
tướng ấy là một thiên tài về quân sự nên ông
đánh đâu thắng đó. Từ thời Alexandre
đại đế, vua nước Macedonia ngày xưa cho
đến nay, không có người nào đánh thắng
được nhiều trận, chiếm được
nhiều nước cho bằng vị tướng này.
Bấy giờ, vua ở các
nước Châu Âu thấy nội tình nước Pháp ngày
càng rối loạn, chia năm bè bảy mối, lo sợ
loạn lạc ấy lan đến nước mình nên
họ cùng nhau dấy binh dẹp loạn cách mạng và
chiếm lấy nước Pháp. Chính quyền cách mạng
sai tướng Bonaparte đem quân đánh trả những
đạo binh của các vua. Vị tướng này đi
tới đâu chiến thắng tới đó, không những
đánh bật những đạo quân xấm lấn
nước Pháp mà còn chiếm lấy nhiều tỉnh
của các nước khác, nên các vua phải xin cầu hòa.
Tướng Bonaparte chiến
thắng các nước Châu Âu nên thanh thế của ông ngày
càng lớn mạnh, ở bên trong cũng như bên ngoài
nước Pháp. Quân cách mạng bị mang tiếng là
cướp của giết người quá nhiều cũng
như phá bỏ mọi quy luật trong nước, nên dân
chúng chán ghét và ước ao thoát khỏi cảnh kềm
kẹp của quân cách mạng.
Tướng Bonaparte hiểu biết
lòng dân như thế nên sau khi đánh giặc xong trở
về nước, ông dẹp tan phe cách mạng, tha cho
những kẻ lưu đày được trở về
quê quán, trả tự do cho tù nhân, ông tái lập những
phong tục tập quán xưa đã bị quân cách mạng
phá bỏ, sửa sang mọi việc trong nước và lo
liệu cho dân chúng được tự do giữ
đạo.
Đúng ra, sau khi bình định xong
những nước lân cận xâm lấn bờ cõi,
chấn chỉnh các phong tục tập quán, tướng
Bonaparte nên rước dòng dõi con cháu vua Thánh Louis về
kế nghiệp, nhưng bả phù hoa làm cho vị
tướng này say mê, và bởi đánh thắng
được nhiều nước lớn nên ông sinh lòng
kiêu ngạo. Thật đúng như lời sách đã chép: Sửa
trị mình thì khó hơn cai trị thiên hạ.
Tướng Bonaparte nắm trong tay
binh lực và được dân chúng mến phục, tung hô
thì tự đặt mình lên làm vua, lấy hiệu là Napoleon
I. Dân chúng hoa mắt bởi vinh dự do những chiến
thắng của vị tướng ấy mang lại,
vừa được giải thoát khỏi bị quân cách
mạng ức hiếp, làm khổ đủ điều nên
chẳng những bằng lòng cho tướng ấy lên làm
vua mà nhiều người còn ước ao điều
đó.
Nước Pháp là một
nước đa số dân theo Công Giáo nên lòng đạo
đức rất sốt sắng. Từ khi vua Clovêô
trở lại đạo cùng với toàn thể dân chúng
trong nước cho đến bây giờ, Thiên Chúa đã dùng
nước Pháp mà làm nhiều điều lớn lao
để danh Chúa cùng Giáo Hội của Người
được vinh quang. Thời Trung Cổ, nước
Pháp là quốc gia có nhiều người gia nhập
Thập Tự Quân đi đánh Hồi Giáo, để
lấy lại thành Giêrusalem và Đất Thánh mà quân Hồi
đang chiếm giữ. Chính ông Bouillon, vua nước
Giêrusalem, là dòng dõi con cháu các vua đã trị vì nước
Pháp tự lâu đời.
Nước Pháp có nhiều dòng tu nam
nữ góp phần cộng tác xây dựng Giáo Hội, có
nhiều thừa sai đi giảng đạo cho dân
ngoại và đóng góp nhiều tiền bạc giúp truyền
giáo cho các nước chưa biết Chúa, nên đức giáo
hoàng đã đặt nước Pháp là trưởng nữ
của Giáo Hội. Trong cuộc cách mạng, vua bị
giết, Kitô giáo bị bách hại, cấm cách; các linh
mục, tu sĩ bị giết, bị bắt bớ tù
đày ba bốn năm liền, do đó khi tướng
Bonaparte đánh dẹp quân cách mạng, sửa sang mọi
việc trong nước, mọi người
được tự do giữ đạo thì dân chúng vui
mừng biết chừng nào.
Khi Giáo Hội được sinh hoạt
lại, các nhà thờ và dòng tu được trả
lại cho Giáo Hội, các linh mục được tự
do cử hành thánh lễ và ban các bí tích, các giáo hữu
bấy lâu nay khao khát được hưởng nhờ
ơn ích của các bí tích thì rất vui mừng và không
ngừng tạ ơn Chúa.
Được tự do giữ
đạo, người tín hữu vui mừng lắm,
nhưng niềm vui ấy không được trọn
vẹn vì có rất nhiều xứ, nhiều nhà thờ không
có linh mục làm lễ và ban bí tích cho dân chúng. Đoàn chiên
thì còn mà chủ chăn thì đã chết, vì trong cuộc cách
mạng nhiều linh mục bị lên máy chém, nhiều
vị phải trốn vào rừng sâu nước
độc, nơi xa xôi hẻo lánh nên mắc bệnh mà
chết ở đấy, không còn được bao nhiêu
vị an toàn trở về nhà xứ của mình. Do đó, có
nhiều người muốn dự lễ hay chịu các bí
tích, họ phải đi hai ba ngày đường mới
tới nơi giáo xứ có linh mục. Xứ Dardilly, quê
của Gioan Vianney không có linh mục, nhưng xứ Ecully sát
bên, vì có công chứa chấp bốn linh mục trong thời
kỳ cấm đạo nên đức giám mục cho
một linh mục về coi xứ ở đấy.
Tháng 2 năm 1807, linh mục Balley
được sai về xứ Ecully là nơi ngài đã
ẩn nấp suốt bốn năm cấm đạo. Cha
Balley vừa đạo đức sốt sắng vừa
thông thái nên đức giám mục kính nể và tín cẩn cách
đặc biệt. Ngài vừa về nhận xứ thì con
chiên trong xứ và các xứ lân cận không có linh mục
đua nhau tuôn đến dự lễ cùng chịu các bí
tích. Ngài giải tội cả ngày đêm sáu tháng liền mà
chưa hết người xưng tội. Khi đã bớt
người xưng tội, ngài dạy giáo lý, tập
xưng tội cho những trẻ chưa được
xưng tội rước lễ lần đầu.
Những trẻ em mười và mười một
tuổi thì rất đông, nhưng những trẻ em
từ mười ba cho tới hai mươi thì còn đông
hơn nữa.
Cha Balley dù vất vả với công
việc mục vụ cho giáo xứ của mình và các giáo
xứ lân cận, nhưng cha luôn nhớ đến lời
Chúa Giêsu phán: "Lúa chín đầy đồng mà thợ
gặt thì ít". Do đó ngài quyết định mở
trường Latinh cho những ai muốn dâng mình cho Chúa, làm
linh mục dẫn dắt các linh hồn về với Chúa.
Ngài tin rằng đây là điều Chúa muốn và chính
Người đã soi sáng cho ngài mở trường dạy
trẻ.
Trong những người
đến học với ngài, có nhiều người
đã chịu chức linh mục, phục vụ và giúp ích
cho Giáo Hội rất nhiều nhưng có hai người
nổi tiếng hơn hết là Đức Cha Matthia đi
truyền giáo ở Châu Mỹ và Cha Gioan Vianney, cha sở họ
Ars.
Các linh mục dạy bảo trẻ
em về ơn thiên triệu, uốn nắn dạy dỗ
chúng trung thành với ơn gọi đó thì làm ích cho Giáo
Hội. Như xưa Thánh Ambrôsiô làm được
nhiều điều vinh danh Chúa, lợi ích cho Giáo Hội và
các linh hồn, tỉ như thánh nhân khuyên bảo Thánh
Augustinô bỏ đạo rối trở lại đạo
Công Giáo thì đem lại cho Giáo Hội nhiều ơn ích
hơn các việc khác ngài đã làm. Cũng thế, cha Balley
mở trường Latinh dạy dỗ Gioan và những
trẻ em khác, để chuẩn bị mầm non sẽ
tiến lên chức linh mục, là việc quan trọng và
hữu ích hơn các việc khác cha đã làm.