THÁNH
MARIA, ĐỨC MẸ CHÚA TRỜI
Ngày 1 tháng 1, trong khi chúng ta chúc nhau
"năm tốt lành”, Giáo Hội mừng lễ
Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa. Và chúng ta ước nguyện
đi xa hơn
vào huyền
nhiệm
Đức
Kitô. Bởi vì mỗi lần
Giáo Hội
nói với
chúng ta về
Đức
Maria, chính là để
nói về
Đức
Giêsu. Chúng ta có khẳng định quá đán, khi chúng ta nói, trong kinh Kính Mừng Maria: Thánh Maria, Mẹ Thiên
Chúa? phải chăng một tạo vật có
thể là mẹ Thiên Chúa? Phải Chăng Thiên Chúa lại sinh
ra từ một người
đàn bà, như Thánh Phaolô nói trong bài đọc thứ hai hôm nay (Gl 4,4).
Đến nơi, họ gặp bà Maria, ông Giuse, cùng với Hài Nhi đặt nằm trong máng cỏ.
Các
mục đồng hết sức đơn thành, ở những vùng sườn đồi Bêlem, chạy vội đến để xác minh sứ điệp mà thiên thần truyền cho họ: "một Đấng Cứu độ được sinh ra cho các ngươi; Người là Đức Kitô và là Chúa". Chính là Hài Nhi
mang ba danh hiệu ấy mà họ tìm đến. Ba danh hiệu trang trọng, thuộc về Thiên Chúa: Đấng Cứu Độ, Đấng chịu Xức Dầu,
Đức Chúa.
Như vậy, điều đáng chú ý nhiều hớn nữa là Luca dường như xem thường Hài nhi, khi trưng dẫn Người
cuối cùng; và cũng đặt người đàn ông, ông Giuse, xuống thứ hai vào thời mà người đàn bà không có giá trị ngang bằng. “Họ
khám phá ra Maria". Trong cái viễn
tượng
đảo
lộn
này, có một
cuộc
cách mạng
thần
học
và nhân bản
nho nhỏ.
Maria!
Danh hiệu của bà là Mẹ Thiên Chúa đã chỉ
được
xác định
ở
Công đồng
Êphêsô năm 430. Nhưng từ
rất
lâu, lòng sùng kính bình dân đã dám gọi Đức
Maria là “theotokos" "Mẹ Thiên Chúa". Và
vào thời
đó khi các giám mục
chính thức
công nhận
danh hiệu
này, thì cả
thành phố
Êphêsô hoan hỉ
và xuống
phố
lúc nữa
đêm để
rước
đuốc
mừng
lễ.
Cái mà các nhà thần học tìm
kiếm, về mặt trí
thức, từ bốn thế kỷ qua, thì về bản chất nó
đã được sống nơi tất cả những người chỉ biết đơn sơ lắng nghe Tin Mừng. Các Công đồng chỉ có vai trò xác định bằng ngôn ngữ khoa học những
điều đã gợi ra từ trong Tân ước. Ngoài ra còn phải
đợi
đến
hai mươi
năm nữa,
thì Công đồng
Can-xê-đoan sau cùng năm 451 mới xác định
huyền
nhiệm
của
Đức
Giêsu và Đức
Maria. Đây là văn bản tín điều, văn bản nổi tiếng nhất của lịch sử các Cồng đồng: "Tất cả, chúng tôi đồng lòng tuyên xưng, một Chúa Con độc nhất và
luôn luôn là một. Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta, hoàn toàn về thiên tính, hoàn toàn về nhân
tính, Thiên Chúa thật và người thật, được cấu thành bới một linh hồn có lý trí và một thân xác, đồng bản tính với Chúa Cha do thiên tính, đồng bản tính với chúng ta bởi nhân tính, tất cả đều giống như chúng ta trừ tội lỗi (Dt 4,15), được sinh ra bởi Chúa Cha, trước các thế kỷ theo thiên tính, được sinh ra trong những ngày cuối cùng này vì chúng ta và để cứu độ chúng ta, bởi Đức Maria, Mẹ trinh nguyên của Thiên Chúa theo nhân tính: một và cùng một Chúa Ki tô duy nhất. Con độc nhất, mà
chúng ta phải nhận biết trong hai bản tính không lẫn lộn, không thay đổi, không phân ly, không tách biệt". Đấy là tấm
giấy
chứng
minh kỳ diệu
và rõ rệt
về
Đức
Giêsu Nagiarét, và Mẹ
Người
Đức
Maria.
Họ tìm ra Bà Maria và ông Giuse cùng với Hài nhi đặt nằm trong máng cỏ.
Cần phải lặp lại những từ này sau khi đã nghe xác định trang trọng về
Đức tin. Như
thế
chúng ta hiện
đứng
trước
một
trong hai phương
diện
của
Đức
Giêsu, nhân tính thực
của
Người.
Các mục đồng trông chờ tìm thấy một Đấng Cứu độ Kitô Chúa (Lc 2.11), và chỉ tìm
thấy có thế: một Hài nhi trong chuồng bò lừa, đặt trong máng cỏ dành cho súc vật, một Hài
Nhi trên nệm rơm!
Thiên Chúa lập tức tự mạc khải như một vị hoàn
toàn khác: thoạt đầu, Người khác với cái mà ta tưởng tượng
về Người. Người đã hiện ra như quá gần gũi,
ngay từ đầu. Người mang tính người
đến
nỗi
nhiều
người
không nhận
ra Người,
chính vì Người
bị
che khuất
đối
với
người
thân tín nhất
của
nhân loại
chúng ta.
Vâng,
Giao ước giữa
Thiên Chúa và con người mà Cựu ước, Tân ước nói tới, ngay từ đầu, không huyênh hoang, đã nói
với chúng ta là nó đi đến đâu: hợp nhất
không thể xé bỏ được, không lẫn lộn, không phân ly, không tách biệt.
Tất cả thái độ tôn giáo được hâm chứa như mầm mống trong điều mạc khải này: người ta không thể miệt thị vật chất, thân xác, từ khi Thiên Chúa "nhập thể” trong cung lòng trinh nữ
Maria. Không có cái gì là phàm tục. Tất cả đều trở nên linh thánh, nghĩa là
đôi khi hoàn toàn "nhân bản" và hoàn toàn "thiên bản": lớn lên chín tháng trong bụng mẹ, sinh ra, ngủ nghỉ, ăn uống, học đi và tập nói, chữa lành bệnh nhân, lên tiếng công khai, yêu mến bạn bè, thức dậy sớm ban
sáng để cầu nguyện, chịu đau đớn, chết,... những thực tại nhân
thiên bản những thực tại linh thánh. Và Đức Maria, Mẹ Thiên Chúa, thì giống như một bảo đảm cho sự kết hợp
không thể phân ly của Thiên Chúa và con người trong bản vị độc nhất của
Đức Giêsu.
Thấy thế, họ liền kể lại điều đã được nói với họ về Hài Nhi này.
Điều họ
đã được loan báo, chính là "một Đấng Cứu
Độ, được sinh ra cho các anh, người
là Chúa Kitô.
Họ đơn sơ
đến nói sứ điệp của họ, tức là những lời nói mà họ nghe thấy. Các họa
sĩ thuộc
mọi
thời
đại
đã diễn
dịch
câu nói Tin Mừng
này khi trưng
bày một
bức
tranh "Sự
thờ
kính của
các mục
đồng".
Thực
sự,
đúng hơn
các mục
đồng
đã giảng
một
bài cho Đức
Maria, bằng
cách nói Tin Mừng
cho bà, tin lành mà họ
nhận
được.
Bây giờ, trong câu này chúng ta thấy có phương diện thứ hai của Đức Giêsu, thiên tính đích thực của người:
về Hài nhi này, các thiên thần đã nói với chúng ta rằng:
Người là Đức Kitô và là Chúa!”. Đó là một tuyên xưng đức tin và từ đó đến thờ kính
thì không xa: các bức tranh của các họa sĩ không lầm lần.
Nghe các người chăn chiên thuật chuyện, ai cũng ngạc nhiên. Còn bà Maria thì hằng ghi nhớ mọi kỷ niệm ấy, và suy đi
nghĩ lại trong lòng.
Ngôn từ Hy Lạp của Luca còn mạnh mẽ hơn nhiều mọi người
ai cũng lấy làm lạ lùng. Thế nhưng,
có cần
phải
thấy
một
đối
lập
mà Luca muốn
trình bày giữa
thái độ
tổng
quát và thái độ
của
Maria chăng? Quả thực
đúng là ông chỉ nhấn mạnh đến cách hành sử của bà thôi: Bà không chỉ lạ lùng, mà suy niệm.. Dù không hiểu nhiều hơn các mục đồng về huyền nhiệm xảy
đến cho mình, phải chàng người ta không thể nghĩ rằng từ
đáy lòng mình Đức Maria nói lại tiếng xin vâng của đức tin trước sự mới lạ bất ngờ của Hài nhi này sao? Luca không ngừng tôn vinh giá trị của
Maria.
Rồi các người chăn chiên ra về, vừa đi vừa tôn vinh ca tụng Thiên Chúa, vì mọi điều họ đã được mắt thấy tai nghe, đúng như đã được nói với họ.
Chúng ta luôn luôn cố giản lược huyền nhiệm về Đức Giêsu, bằng các đến giản hóa đi, Hoặc là người ta nhân bản hóa Đức Giêsu khi chỉ nhìn thấy người
là một người có thiên tài, hoặc người ta linh thiêng hóa người bằng cách chối từ những
khuyết điểm trong nhân tính của Người. Chính các mục đồng, những con người đơn sơ, đã trông thấy và đã nghe thấy. Họ
đã xem thấy
một
nhân tính hoàn toàn bình thường, và nghe thấy một
sứ
điệp
rất
phi thường.
Và họ không chỉ muốn dừng lại ở những dáng vẻ bên ngoài: họ tôn vinh và ca tụng Thiên Chúa.
Khi Hài Nhi
được đủ tám ngày, nghĩa là đến lúc phải làm lễ cắt bì, người ta đặt tên cho Hài Nhi là Giêsu
Hài
nhi Bêlem là một người
thực bé mọn, gắn liền với một truyền thống, một văn hóa và hệ thống tập tục. Đó là một bé trai, nhời được ghi dấu vào xác thịt dành cho tất cả những người nam của dân tộc này. Vâng, một
nhân tính thực
sự
mà trước
nó người
ta không thể
không thấy
được.
Nhưng tên của trẻ thơ này mang những vấn
đề mới về căn tính của cậu: tại sao di cư phải
đặt cái tên Thiên Chúa Cứu Độ, Yeshoua, Giêsu? Tại
sao?
Đó là tên mà sứ thần đã đặt cho Người trước khi Người được thụ thai
trong lòng mẹ.
Theo
Luca, việc đặt tên này chỉ là nhột cơ hội bổ sung để làm nổi bật Maria: tác giả nhấn mạnh rằng Maria, Mẹ Người,
đã nhận tên con mình “trước khi Người được thụ thai trong lòng”.
Công
đồng Vatican II, tiếp theo một truyền thống lâu
dài của Giáo Hội, đã trình bày Đức
Maria như một gương mẫu của Giáo
Hội, người đầu tiên trong các tín hữu. Và trong trang Tin Mừng này, chúng ta thực sự vừa mới nhận ra rằng bà là người đầu tiên đón nhận Lời Chúa
và suy niệm trong lòng mình... và bà là người đầu tiên có lời tuyên xưng cơ bản về lòng tin của chúng ta: Thiên Chúa Cứu
Độ!
Trong
ngày đầu tiên của năm mới, tất cả sự mới mẻ của niềm tin
Kitô giáo được Đức Maria nhắc lại cho
chúng ta. Sự tân kỳ của Đức
tin của
các Kitô hữu,
chính là không phải
chỉ
tin vào Thiên Chúa. Điều đó, phần đông mọi người
vẫn thế, nhất là
những người theo một trong những tôn giáo lớn trên thế giới: và
chúng ta nghĩ đến Do Thái giáo, Hồi Giáo, và biết bao Tôn Giáo hữu linh. Đặc tính riêng biệt
của
người
Kitô hữu,
chính là tin vào sự
nhập
thể
của
Thiên Chúa nơi
Đức
Giêsu Kitô. Sự tôn sùng Đức Maria chỉ làm cho chúng ta nhớ lại điều đó.