THEO
ĐẠO VÀ CHÚA THƯỞNG PHẠT NHƯ THẾ NÀO SAU
KHI CHẾT
Trần Mỹ Duyệt
Thưa chú, hôm nay cháu có mấy câu hỏi nhờ
chú giúp ý kiến:
Con của cháu nó hỏi con: “Một người
tin vào Chúa thì được lên Thiên đàng? Nhưng nếu
một người sinh ra ở North Korea nơi bị cấm
giảng đạo thì làm sao họ biết Chúa được,
không lẽ họ không được lên Thiên đàng sao?”
Và : “Một người tội ác ngập đầu,
nhưng biết tin Chúa vào phút cuối cuộc đời
thì lại được lên thẳng Thiên đàng
(như người trộm lành), như vậy có công bằng
không? Còn những người suốt đời như mẹ
tin Chúa, tối ngày lo đọc kinh, đi lễ không lẽ
cũng bằng một người chỉ tin vào phút chót mà
cả đời toàn là tội lỗi sao? Như vậy
Chúa có “fair” trong trường hợp này không? Con thấy
người Công giáo nào cũng khoe mình tin Chúa, vậy họ
lên thiên đàng hết sao?”
Những câu hỏi mà nó làm cháu nhức óc. Cháu cãi
không lại nó thưa chú.
TN Ph.
Trả lời góp ý:
Hai câu hỏi bao gồm một số vấn
đề của con cháu cũng là những câu hỏi mà rất,
rất nhiều bạn trẻ đã hỏi, đã thách thức
với cha mẹ. Cũng như cháu, nhiều cha mẹ “cãi”
không lại với bọn trẻ. Vậy sau đây là vài
tư tưởng góp ý, hy vọng cháu sẽ dùng để
có dịp nói chuyện lại với con của cháu.
Trước khi đi vào những chi tiết, có
một điều mà tôi muốn nói ngay, đó là khi một
số phụ phụ đến than thở với linh mục
về tình trạng con cái bỏ nhà thờ, bỏ cầu
nguyện, bỏ sống đạo thì thường
được nghe những câu, đại khái: “Con cái thời
nay là thế. Mình đã cố gắng hết sức rồi,
hãy để mặc Chúa lo liệu. Sẽ có ngày nó quay về
với Chúa, với Giáo Hội.” Phụ huynh nào nghe những
câu an ủi như vậy cũng thấy được an
lòng, tuy nhiên vấn đề không đơn giản và dễ
dàng như vậy. Thế nào là “đã cố gắng hết
sức?” Thế nào là “Hãy để mặc Chúa lo liệu?”
Nói như vậy là nói huề vốn, nói cho vui tai, và vừa
lòng người hỏi.
Điểm quan trọng là khi con cái bỏ nhà thờ,
bỏ lễ lạy, kinh hạt, bỏ cầu nguyện, bỏ
Chúa thì người có trách nhiệm trực tiếp nhất
vẫn là cha mẹ, vẫn phụ huynh. Và điều mà
chúng ta phải hỏi lòng mình là thực sự “đã cố
gắng hết sức chưa?” Bằng cách nào? Có phải
là bằng những việc làm rõ ràng, cụ thể và những
cố gắng đôi khi đòi phải hy sinh, chịu đựng,
nhẫn nại và bền bỉ, hay chỉ bằng những
hành động, lời nói sơ sài, chiếu lệ như
khuyên bảo vài câu, la mắng vài lần rồi bỏ mặc.
Trong thực hành, vợ chồng, cha mẹ có siêng năng
đọc kinh, cầu nguyện sáng tối với nhau
không? Có tham dự thánh lễ mỗi ngày, tham dự các giờ
kinh nguyện, giờ chầu Thánh Thể trong giáo xứ, có
tha thứ, chịu đựng, làm gương sáng cho con cái
không? Hay ngược lại, vẫn rượu chè, vẫn
cãi vã, vẫn chôm chỉa, vẫn gian lận, vẫn ngoại
tình, vẫn chửi thề, vẫn khô khan, nguội lạnh,
vẫn lười biếng cầu nguyện, bỏ lễ,
bỏ thực hành đạo?
Sau khi đã cố gắng hết sức thì “hãy
để mặc Chúa lo liệu?”. Đúng vậy, đây
cũng là cách mà Monica đã áp dụng, có nghĩa là thánh nữ
đã phải mất ròng rã 17 năm trong hy sinh, trong kinh nguyện,
và trong nước mắt để mới có một
Augustine trở lại. Đó cũng là cách thức mà bố
mẹ của Têrêsa Hài Đồng Giêsu đã làm, là đã phó
thác cho Chúa khi trọn đời sống đạo tốt
lành để nêu gương sáng cho các con. Thánh nữ đã
nói về cha mẹ mình: “Thiên Chúa đã ban cho con một
người cha mẹ xứng với Thiên Đàng hơn trần
thế.” Kết quả là chính hai ông bà đã được
phong thánh, Têrêsa cũng được phong thánh, mà hơn thế,
còn được phong làm Tiến Sỹ Hội Thánh và Bổn
Mạng Các Xứ Truyền Giáo. Còn lại 4 người chị
của thánh nữ đều là những nữ tu thánh thiện,
3 trong đan viện Carmelô ở Lisieux, và 1 thuộc Dòng
Thăm Viếng. Đó mới là trọn vẹn ý nghĩa của
“cố gắng hết sức” và “phó mặc cho Chúa”.
Sau đây là bước vào phần những câu hỏi:
“Một người tin vào Chúa thì được
lên Thiên đàng? Nhưng nếu một người sinh ra ở
North Korea nơi bị cấm giảng đạo thì làm sao
họ biết Chúa được, không lẽ họ không
được lên Thiên đàng sao?”
Đúng vậy, “Những ai tin và chịu
phép rửa sẽ được cứu rỗi, còn những
ai không tin thì sẽ bị luận phạt.” (Mác-cô
16:16). Đây là điều kiện cần phải có để
được lên Thiên Đàng. Nhưng lời Chúa nói tự
nó đã diễn tả giữa hai trạng thái lên hoặc
không được lên Thiên Đàng. Đó là “tin” hoặc
“không tin.”
“Không biết không có tội.” Một người
không được nghe, không được biết, không
được giảng giải làm sao bắt tội
người ta là “không tin”. Chỉ có những người
đã biết, đã nghe, và đã được học hỏi
về Chúa, về giáo lý của Chúa và về ơn cứu
độ, mà vẫn không tin, không chấp nhận, và không thực
hành mới là đối tượng của luận phạt
- mất hạnh phúc Thiên Đàng. Vậy đừng lo cho
những người ở North Korea hay ở bất cứ
nơi nào trên thế giới mà ở những nơi đó
ánh sáng Phúc Âm chưa chiếu soi, và Tin Mừng của Chúa
chưa được truyền rao đến. Chúa có cách cứu
độ những người ấy, vì theo Đức
Giáo Hoàng Bênêđíctô XVI, thì trên trái đất có bao nhiêu
người là có bấy nhiêu con đường lên Thiên
Đàng. Tại sao?
Vì mỗi người khi sinh vào đời, Thiên
Chúa đều ban cho một lương tâm, hay còn được
gọi là cán cân lành dữ. Nếu không được học
cách sử dụng cán cân này bằng những giáo lý, giáo huấn
của Giáo Hội, những hướng dẫn của
đạo đức của luân lý, và những soi dẫn
Phúc Âm, thì ít nhất cũng phải sống và hành động
theo hướng dẫn của lương tâm chân chính, của
luật lành và dữ. Sống và thực hành những điều
lương tâm mách bảo với một niềm tin tưởng
vào Đấng Tối Cao như vậy cũng đủ
để được Ngài ân thưởng. Tuy nhiên, nếu
đã biết Ngài, đã nghe nói về Ngài, và đã
được hướng dẫn đầy đủ mà
vẫn nhất định không tuân theo thì lúc ấy không những
Ngài sẽ loại bỏ, mà chính lương tâm người
ấy cũng sẽ loại bỏ họ.
Và : “Một người tội ác ngập
đầu, nhưng chỉ cần biết tin Chúa vào phút cuối
cuộc đời như người trộm lành mà
cũng được lên thẳng Thiên đàng, như vậy
có công bằng không? Còn những người suốt đời
như mẹ tin Chúa, tối ngày lo đọc kinh, đi lễ
không lẽ cũng bằng một người chỉ tin
vào phút chót mà cả đời toàn là tội lỗi sao?
Như vậy Chúa có “faire” trong trường hợp này không?
Con thấy người Công giáo nào cũng khoe mình tin Chúa, vậy
họ lên thiên đàng hết sao?”
Không phải vậy. Đây là một ý nghĩ
phiến diện và cho thấy là chưa thông hiểu về
tình thương Thiên Chúa và đức công chính của Ngài.
Người trộm lành. Tôi không thích danh từ này, vì đã
đi ăn trộm, ăn cướp thì không bao giờ gọi
là “lành”, đúng ra phải gọi anh ta là “người trộm
thống hối”, bởi vì anh ta đã nhận ra tội của
mình, đã thống hối, ăn năn và xin Chúa
thương xót:
“Một trong hai tên gian phi bị treo trên thập
giá cũng nhục mạ Người: “Ông không phải là Ðấng
Kitô sao? Hãy tự cứu mình đi, và cứu cả chúng tôi
với!” Nhưng tên kia mắng nó: “Mày đang chịu chung một
hình phạt, vậy mà cả Thiên Chúa, mày cũng không biết
sợ! Chúng ta chịu như thế này là đích
đáng, vì xứng với việc đã làm. Chứ ông này
đâu có làm điều gì trái!” Rồi anh ta thưa với
Ðức Giêsu: “Ông Giêsu ơi, khi ông vào Nước của ông,
xin nhớ đến tôi!” Và Người nói với anh
ta: “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở
với tôi trên Thiên Ðàng”. (Luca 23: 39-43)
Cái giá
Thiên Đàng cho anh trộm thống hối không hề rẻ.
Anh ta không chỉ nhận ra lỗi lầm của mình, chấp
nhận hình phạt, và còn dám tuyên xưng Đức Tin và
tin vào Đấng Cứu Thế. Dĩ nhiên, Thiên Chúa không thể
nào không đón nhận một người con thống hối.
Chúng ta hãy nghe để hiểu được tình
thương của Cha trên trời đối với những
đứa con tội lỗi nhưng biết xám hối:
“Nhưng nếu kẻ gian ác từ bỏ mọi
tội lỗi mình đã phạm mà tuân giữ mọi quy tắc
của Ta, cùng thi hành điều chính trực công minh, thì chắc
chắn nó sẽ sống, nó không phải chết. Mọi tội
phản nghịch nó phạm, người ta sẽ không còn
nhớ đến; nó sẽ được sống vì
đã thi hành lẽ công minh. Chẳng lẽ Ta lại vui
thích vì kẻ gian ác phải chết – sấm ngôn của
ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng – Ta lại không muốn
cho nó từ bỏ đường lối của nó mà
được sống sao?” (Ezekiel 18:21-23).
Nhưng thử hỏi là được bao nhiêu
tội nhân suốt đời ăn chơi, hoang đàng,
đĩ điếm, gian dâm, trộm cướp, tham lam,
giết người… mà trước giờ chết biết
nhận ra lỗi lầm, biết xin lỗi, và biết kêu
cầu lòng thương xót Chúa? Điều này xét theo mặt
tự nhiên đã là khó, và càng khó hơn nữa khi lúc đó
còn có ma quỉ vây quanh cám dỗ, làm cho mất niềm tin,
và sự cậy trông nơi Thiên Chúa thì việc ăn
năn, hối lỗi không hề dễ.
Trở lại việc người trộm thống
hối và những tội nhân thống hối khác nếu
được vào Thiên Đàng thì chắc chắn phần
thưởng, hạnh phúc và sự cảm thấu về
Thiên Chúa sẽ không bằng những vị suốt đời
hy sinh, cầu nguyện, sống tiết độ, làm việc
thiện. Lý do vì Thiên Chúa yêu thương hết mọi
người nhưng cũng công bình với hết mọi
người. Thánh nữ Têrêsa diễn giải về hạnh
phúc Thiên Đàng bằng một hình ảnh rất hay, rất
dễ hiểu và rất ý nghĩa. Đại khái có chị
em hỏi Thánh Nữ về Thiên Đàng và hạnh phúc trên
đó có đồng đều như nhau không, thì Thánh Nữ
đã trả lời qua một thí dụ:
Nếu gọi hạnh phúc Thiên Đàng như suối
nguồn hạnh phúc, thì khi lên đó nếu ta có một chiếc
ly, một chiếc bát, một chiếc bình, một cái thùng,
một cái hũ…là những gì chúng ta tạo được
trên cõi đời này bằng hy sinh, cầu nguyện, chịu
khó và những việc lành phúc đức, thì lúc đó Thiên
Chúa sẽ làm tràn đầy những chiếc ly, chiếc
bát, chiếc bình, cái thùng, cái hũ…đó. Điều này có
nghĩa là mọi người đều được hạnh
phúc tràn đầy, nhưng rõ ràng là mức độ tràn
đầy không như nhau.
Như vậy thì cháu cứ việc hy sinh, cầu
nguyện và sống tốt lành. Phần thưởng Thiên
Đàng của cháu sẽ tràn đầy theo những gì
đã sắm được trên cõi đời này trước
khi đem vào cõi trường sinh. Thiên Chúa sẽ không unfair
(bất công) với cháu, hoặc cũng không thiên vị với
bất cứ ai. Vì mỗi người đều lãnh công
theo việc lành mình đã làm: “Kẻ trồng người
tưới đều như nhau, nhưng ai nấy sẽ
được thù lao theo công khó của mình.” (1 Corintho 3:
8)
Và sau cùng là “Con thấy người Công giáo nào
cũng khoe mình tin Chúa, vậy họ lên thiên đàng hết?”
Ồ! Không. Chính Chúa Giêsu đã dạy rằng:
“Không phải bất cứ ai thưa với Thầy:
“Lạy Chúa! lạy Chúa!” là được vào Nước
Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của
Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới
được vào mà thôi. Trong ngày ấy, nhiều người
sẽ thưa với Thầy rằng: “Lạy Chúa, lạy
Chúa, nào chúng tôi đã chẳng từng nhân danh Chúa mà nói tiên
tri, nhân danh Chúa mà trừ quỷ, nhân danh Chúa mà làm nhiều
phép lạ đó sao?” Và bấy giờ, Thầy sẽ tuyên bố
với họ: Ta không hề biết các ngươi; xéo
đi cho khuất mắt Ta, hỡi bọn làm điều
gian ác!” (Mt 7: 21-23)
Căn cứ vào lời Chúa vừa trưng dẫn
trên, thì việc lên Thiên Đàng hay được cứu rỗi
chắc chắn không hề lệ thuộc vào việc ai
đó xưng mình là người Công Giáo. Theo như Chúa Giêsu
thì “nhân danh Chúa mà nói tiên tri, nhân danh Chúa mà trừ quỷ,
nhân danh Chúa mà làm nhiều phép lạ” mà còn bị
Chúa coi như không hề biết, huống hồ chỉ
mang danh Công Giáo mà lại sống như người không có
Đức Tin. Thiên Chúa không cưỡng ép ai lên Thiên
Đàng, nhưng Ngài cũng không ném ai vào hỏa ngục. Lên
hay xuống là tùy mỗi người, tùy sự đón nhận,
và đáp lại tiếng mời gọi đầy tình
thương của Ngài.
Hy vọng những gì vừa trình bày trên giúp cháu
có thêm chút kiến thức để nói chuyện với tuổi
trẻ ngày nay.
Trần Mỹ Duyệt
|