HIỆP SỐNG TIN
MỪNG
LỄ CÁC ĐẲNG LINH HỒN
Ga 6,32-40
NĂNG TƯỞNG NHỚ CẦU
NGUYỆN CHO TIỀN NHÂN
1. LỜI CHÚA: “Thật
vậy, ý của Cha tôi là tất cả những ai thấy
người Con và tin vào người Con, thì
được sống
muôn đời,
và tôi sẽ
cho họ sống lại trong ngày sau hết.” (Ga 6,40).
2. CÂU
CHUYỆN:
1) NGUỒN GỐC LỄ
CẦU HỒN (02/11):
Thánh Odilo (962- 1048)
là viện
phụ đan viện Cluny. Đan viện này nằm trong phần đất của đế
quốc Germany. Ngài là một người
nhân đức, hằng ngày cầu nguyện hi sinh và dâng lễ cầu nguyện cho các linh hồn đã qua đời.
Một hôm, một đan sĩ trong đan viện Cluny
đi viếng Đất thánh.
Trên đường trở về Đan viện, tàu chở vị đan sĩ bị bão đánh giạt vào một hòn
đảo.
Tại đó, đan sĩ gặp một ẩn
sĩ và được ẩn
sĩ chia sẻ: “"Trên
đảo
này có nhiều hang lửa, trong
hang có nhiều người bị
hành hạ, đánh đập. Tôi
thường
nghe các tên quỉ phàn nàn với nhau về Viện phụ Odilo
và các đan sĩ trong đan
viện
của ngài rằng: ngày nào họ cũng giải thoát một số linh hồn ra khỏi hang lửa
đó. Vì thế, xin thầy về
nói với cha Odilo và các anh em trong Dòng cứ tiếp tục cứu
giúp các linh hồn đau khổ.
Đó cũng là niềm vui cho các thánh trên thiên đàng và làm cho quỉ dữ thêm đau khổ dưới Hỏa ngục".
Sau khi nghe biết sự việc,
cha Odilo đã lập lễ Cầu
Hồn vào ngày 2 tháng 11 và cử hành trong đan viện Cluny của ngài vào năm 998. Về sau lễ cầu
hồn đã được truyền
sang nuớc Pháp, và tới giữa thế
kỉ 10, Đức Giáo hoàng
Gio-an 14 đã lập lễ Cầu hồn trong Giáo hội Rôma. Từ thời
đó, nhiều nơi đã có thói quen cầu nguyện tuần
chín ngày cho các linh hồn. Trong những
ngày đó họ đến đất
thánh thăm viếng, sửa sang mồ
mả của cha ông. Vào buổi chiều lễ
Các Thánh, có những người
đi từng nhà xin quà cho các
linh hồn.
Họ hát những bài ca cổ truyền để xin cầu cho các linh hồn mau ra khỏi Luyện ngục.
Tại nước Hungary, người ta gọi ngày 2/11 là "Ngày người chết". Ngày đó, người ta tụ họp
các trẻ mồ côi tới gia đình
mình để cho chúng ăn, cho quần áo, quà bánh và đồ chơi… Tại miền
quê nước Balan: nửa
đêm lễ các linh hồn, người ta thắp sáng nhà thờ giáo
xứ,
để các linh hồn trong xứ
đã qua đời về quanh bàn thờ cầu xin được sớm thoát khỏi luyện ngục. Sau đó các linh hồn sẽ về thăm nhà mình, thăm nơi làm việc khi họ còn sống, nên
các gia đình có người qua đời đều mở cửa
sổ suốt đêm ngày 2/11
để
đón các linh hồn.
2) CHỨNG TÍCH VỀ LUYỆN NGỤC: Có rất nhiều chứng tích về các linh
hồn
từ luyện ngục về xin cầu nguyện. Ở
đây xin kể ra hai chuyện
được lưu trữ tại bảo tàng Rôma:
- Chứng tích 1: Mẹ hiện về với
con trai:
Bà Leleux, trong đêm 21-6-1789, đã
hiện
về với người con trai của bà là Joseph Leleux ở Wodecq (Bỉ). Bà hiện về 11 đêm liên tiếp để nhắc nhở con bà phải xin lễ cho bà, đồng thời bảo con bà
phải
sửa mình lại vì anh ta đang sống bừa bãi, khô khan nguội lạnh. Bà cầm tay con và
in dấu
cháy cả bàn tay bà vào ống tay áo của con. Kết qủa là
anh đã trở lại sống thánh
thiện,
đã lập một hội
đạo đưc dành cho
giáo dân, các hội viên trong hội này đã thi đua nên thánh. Anh đã qua
đời
cách thánh thiện ngày 19-4-1825.
- Chứng tích 2: Mẹ chồng hiện
về với con dâu:
Nhạc mẫu của
bà Magarita Demmerlé thuộc giáo xứ Ellinghen, giáo phận Metz, qua đời năm 1785, và 30 năm sau, năm 1815 đã hiện về với
con dâu. Bà buồn bã nhìn con dâu như có ý xin điều gì. Bà Magarita Demmerlé lên tiếng hỏi thì được bà
mẹ
chồng cho biết là mình về để
xin con (dâu) cầu nguyện cho mình bằng cách
đi hành hương lên Đền Đức Mẹ ở
Mariental. Người con dâu
đã làm y như lời mẹ chồng xin. Sau cuộc hành hương ấy bà mẹ chồng hiện về với con dâu một lần nữa và báo cho biết là
mình đã được ra khỏi Luyện ngục mà lên Thiên đàng. Bà Magarita xin một bằng chứng
thì bà mẹ chồng liền
in cả bàn tay mình lên trang sách
Gương Phước đang để mở trên bàn…và từ đó bà không còn hiện về nữa.
3.SUY NIỆM: TƯỞNG
NHỚ TIỀN NHÂN:
1) Đức Ki-tô thiết lập Nước Trời: Nước Trời trần gian là Hội Thánh ở trần gian hôm nay và Nước trời trên
Thiên đàng mai sau. Điều
kiện để được gia nhập vào
Nước Trời Hội
Thánh ở
trân gian là phải
có lòng sám hối
tội lỗi và
tin vào Chúa Giê-su, phải
được tái sinh bởi nước và Thánh Thần như lời Đức Giê-su
đã kêu gọi khi ra giảng
đạo: “Hãy ăn năn sám hối và tin vào Tin Mừng” (Mc 1,15). Người cũng dạy:
“Không ai có thể
vào nước
Thiên Chúa nếu
không sinh ra bởi
nước và Thần
Khí” (Ga 3,5). Phải
thực hành giới
răn bác ái bằng
cách thực
thi Tám mối
phúc (x. Mt 5,3-12). Ngoài ra, để có được sự sống vĩnh cửu trên
Thiên đàng, đòi người
ta phải “chiến đấu
để qua được cửa hẹp mà
vào” (Lc 13,24), phải “bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo chân Chúa” (x. Mc
8,34), và “cùng chết với
Chúa để
cùng được
sống lại với Người” (Rm 6,8).
2) Mầu nhiệm các
thánh thông công: Chúa Giê-su chỉ thiết
lập một Hội Thánh duy nhất trên nền đá tảng đức tin của tông
đồ Phê-rô
đã tuyên xưng Đức
Giê-su là “Đấng
Ki-tô Con Thiên Chúa hằng
sống” (Mt 16,16). Hội thánh do Đức Giê-su thiết lập gồm ba tình
trạng: Một là Hội Thánh Lữ Hành trần gian gồm các tín hữu đang sống, đang phải
chiến đấu chống lại ba thù
là ma quỷ, thế gian và
xác thịt của mình.
Hai là Hội Thánh
Vinh Quang trên Thiên đàng gồm
các thánh nam nữ
đang được hưởng hạnh phúc
với Chúa.
Ba là Hội Thánh
Đau Khổ gồm các
linh hồn đang được
thanh luyện trong chốn luyện hình, để họ ngày thêm thanh sạch thánh thiện và hy vọng một ngày nào đó sẽ được về Thiên
đàng. Còn những ai chối
bỏ Thiên Chúa, nghe theo ma quỷ phạm các tội ác mà không chịu hồi tâm sám hối, là đã tự loại mình ra khỏi Hội Thánh và sẽ bị phạt trong hỏa ngục
muôn đời,
“chung số phận với tên Ác quỷ và các sứ thần của nó”
(Mt 25,41).
3) Bổn phận đối với
các linh hồn trong luyện
ngục: Đức Giê-su đã mặc khải về sự thanh luyện ở
đời sau khi nói: "Thầy bảo
thật cho anh biết: anh sẽ không ra khỏi nơi đó, trước khi trả hết đồng
xu cuối cùng" (Mt 5,26). Luyện ngục chính là phương cách Chúa dùng để thanh luyện các linh hồn khi chết vẫn còn mang vết nhơ tội lỗi hay chưa đền bù những thiệt hại đã gây ra cho
tha nhân khi còn sống ở trần
gian. Cầu xin Chúa giúp họ ngày một nên thanh sạch thánh thiện để
sớm được Chúa rước về Thiên đàng hưởng hạnh phúc đời
đời. Do đó, trong tháng các linh hồn này, mỗi tín hữu chúng ta cần dọn mình lãnh các ơn đại xá tiểu xá (với các điều kiện thường lệ), để chuyển
các
ơn ấy cầu cho các linh hồn trong chốn luyện hình; Ngoài ra,
cần siêng năng lần hạt Mân Côi, xin lễ và làm những việc bác ái để đền tội thay cho các linh hồn là thân nhân, hay các linh hồn mồ côi … để họ sớm
được về trời. Khi lên trời chắc họ sẽ không quên cầu bầu cùng Chúa cho chúng ta. Còn các
linh hồn bị sa
hỏa ngục do đã trở thành quỷ dữ, thì không còn thuộc về Hội Thánh
nữa, nên
chúng ta không cần cầu
nguyện cho họ.
4) Về việc cầu
nguyện cho các linh hồn mồ côi: Thực ra, Hội
thánh từ xưa đến
nay không đặt vấn đề
“linh hồn mồ côi” trong niềm tin và trong thực hành.
Hội
thánh không hề phân biệt linh hồn nào là mồ côi, linh hồn nào có thân nhân cầu nguyện, nên trong mọi thánh
lễ dù có người xin lễ cầu riêng cho linh hồn thân
nhân, thì vẫn có lời cầu chung cho tất
cả “các tín hữu đã ly trần trong tình
thương của Chúa”, gồm mọi tín hữu và cả các linh hồn chưa nhận biết Chúa. Như vậy: Nói
linh hồn
mồ côi chỉ là nói theo cách suy nghĩ của loài người chúng
ta, nhưng cũng không sai với giáo
lý và sự
thực hành của Hội Thánh.
Thật vậy,
trong phụng vụ thánh lễ hay kinh nhật
tụng, Hội thánh vẫn khuyến
khích việc cầu nguyện
chung cho các linh hồn cũng
như riêng từng linh hồn theo ý người xin lễ để cầu cho
linh hồn mới qua đời cũng như cầu chung
cho các linh hồn. Việc cầu
nguyện ấy chắc sẽ mang lại lợi ích thiêng liêng cho các linh hồn. Từ đó, có thể suy ra: những linh hồn không có thân nhân xin lễ cầu nguyện
sẽ bị thua thiệt, nên
đức
ái buộc các tín hữu còn
sống
cũng phải cầu nguyện cho các linh hồn mồ côi này. Linh hồn mồ côi chính là những linh hồn bị
quên lãng, vẫn đang được
thanh luyện trong chốn luyện hình, nên rất cần được các tín hữu chúng ta vì đức bác ái hãy tưởng nhớ, xin lễ
và làm các việc lành để cầu cho họ nữa.
4.LỜI CẦU:
Lạy Chúa, xin cho các linh hồn đã qua đời được nghỉ yên
muôn đời, và
cho ánh sáng ngàn thu chiếu
soi trên các linh hồn ấy.
LM ĐAN VINH - HHTM
|