Rắn đồng cứu độ
Trong cả ba bài đọc phụng vụ
hôm nay đều nói đến hai nhịp: bất trung và
trừng phạt, triệt hạ và tái thiết, lưu
đày và hồi hương; lên án và
cứu độ, chết và sống. Các tình
huống thăng trầm này thường xảy ra trong
lịch sử dân Do thái. Chúng tiêu biểu
cho nhịp sống tôn giáo của một dân tộc và
cũng là của mỗi chúng ta, khi bất trung khi nhiệt
thành. “Tư tế và dân chúng bất trung bất nghĩa
… khiến Đức Chúa bừng bừng nổi giận mà
trừng phạt dân Người đến vô phương
cứu chữa” (x. Bài Đọc 1. 2Sb 36,14-16.19-23).
Một kinh nghiệm khác, trong hành trình sa
mạc tiến về đất Hứa, có lúc người
Do thái đã thiếu tin tưởng vào Thiên Chúa nên than trách,
thay vì tri ân thì ca thán Môsê đã đưa họ vào sa
mạc; hình phạt được dựng nên tức
khắc để trừng trị kẻ vô ơn: rắn
độc tràn ra cắn chết những kẻ than van.
Không có thuốc chữa, họ ngước nhìn Thiên Chúa và
kêu cầu Người; Môsê được lệnh đúc
tượng rắn bằng đồng rồi
giương cao nơi hoang địa để những ai
bị rắn độc cắn, nhìn lên rắn
đồng, tức thì được cứu sống (x. Ds
21,4-9). Phương thuốc chữa
trị này không phải là ma thuật bùa chú gì cả,
nhưng là hành vi cứu độ do
đức tin đem lại, quyền năng của Thiên
Chúa được thể hiện nơi lòng tin. Một
phương thế cứu độ nhất thời
của Thiên Chúa đối với dân của Người,
tỏ cho dân biết Thiên Chúa quyền năng đáng kính
sợ, Người cứ độ và thưởng
phạt theo tội phúc mỗi
người.
Hình ảnh rắn đồng
được giương cao trong hoang địa
được chính Đức Giêsu lấy làm biểu
tượng và áp dụng cho chính mình: “Như ông Môsê đã
giương cao con rắn đồng trong sa mạc, Con
Người cũng sẽ phải được
giương cao như vậy, để ai tin vào
Người thì được sống muôn đời” (x.
Bài Tin Mừng. Ga 3, 14-21). Con Người được
giương cao trên thập giá, hình ảnh con rắn
đồng được thay thế bằng thực
tại xảy ra, Đức Giêsu được ví như
Môsê Mới giương cao mình trên đồi Canvê vào
Thứ Sáu Thánh để mang lại ơn cứu
độ cho muôn dân, như một phương pháp dĩ
độc trị độc. Con đường từ cõi
chết bước sang sự sống vươn cao trong
mầu nhiệm Vượt qua nơi bản thân
Đức Giêsu thành Nadarét, đó là mầu nhiệm tử
nạn và phục sinh mà Giáo Hội cử hành hằng ngày
trên bàn thờ : “Chúng con loan truyền Chúa
chịu chết và tuyên xưng Chúa sống lại cho
đến khi Chúa lại đến”. Mỗi
Chúa nhật, Lời Chúa và Thánh Thể làm cho chúng ta sống
một cách bí tích hai nhịp “chết đi và sống
lại” này, làm cho chúng ta nên giống Chúa Kitô. “Người đã cho chúng ta được cùng
sống lại và cùng ngự trị với Đức Kitô
trên trời” (x. Bài Đọc 2. Ep 2,4-10).
Kinh thánh ghi lại những bất trung,
phản trắc của dân Do thái, những tai
ương đi kèm theo họ mỗi khi họ vấp ngã
phản bội, như để sửa trị và gíao
dục họ, nhưng mục đích chính là cốt
để làm nổi bật lên lòng yêu thương của
Thiên Chúa đối với dân Người. Thật vậy
lòng yêu thương của Thiên Chúa luôn dẫy tràn trên
họ đến nỗi Tin Mừng thánh Gioan ca tụng tình
yêu đó : “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban
Con Một, để ai tin vào Con của người thì
khỏi phải chết, nhưng được sống
muôn đời” (c.16). Thật là tội hồng phúc (felix culpa), tội đáng ca tụng vì đã
mang lại cho chúng ta Đấng Cứu Chuộc, như bài
Hoan Ca Phục Sinh (exultet) được cất lên trong
đêm Chúa sống lại. Thật tuyệt vời! Thiên Chúa không ngừng sai những sứ giả
của Người đến giữa dân Người
để kêu gọi họ trở về với Thiên Chúa.
Nếu như dân đã bất trung với Giao Ước
nên đã bị lưu đày, Thiên Chúa đã nhờ bàn tay ngọai giáo vua Ky-rô xứ Ba Tư
để mở cho họ con đường trở
về. Trong mọi hoàn cảnh cho dù bế
tắc đến đâu Thiên Chúa cũng có cách hành xử
hợp lý, Người luôn tỏ ra là Ông chủ lịch
sử. Thật kỳ diệu, lòng Chúa xót
thương! Thánh Phaolô dâng lời ca tụng: “Thưa anh em , Thiên Chúa giàu lòng thương xót và rất
mực yêu mến chúng ta, nên dẫu chúng ta đã chết vì
sa ngã, Người cũng cho chúng ta được cùng
sống lại với Đức Kitô” ( c. 2 . Bài
Đọc 2). Tin tưởng và tín thác
vào tình yêu Thiên Chúa, người Ki-tô hữu không có chỗ
cho tuyệt vọng, họ không có bất cứ lý do nào
để đánh mất niềm hy vọng được
Thiên Chúa cứu độ.
Lạy Chúa Giêsu,
Chúa đã dùng sự chết và sống lại của Chúa
để cứu độ con, con tri ân
cảm tạ và cung kính thờ lạy Chúa. Xin cho con
biết trở nên dấu chỉ tình thương của
Chúa đối với anh em con. Amen.
|