Phận người yếu đuối và tội lỗi
(John W. Martens - Văn Chính, SDB chuyển
ngữ)
“Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người
đến thế gian, không phải để lên án thế
gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của
Người, mà được cứu độ.” (Ga
3,17).
Một trong những thời điểm
đen tối nhất trong lịch sử dân Do thái chính là
việc thành phố Giê-ru-sa-lem và Đền thờ bị
những đội quân của đế quốc Babylon
phá hủy, rồi tiếp sau đó là cuộc lưu đày
sang Babylon. Theo người
ghi chép biên niên sử, biến cố này chẳng phải là
chuyện mà Thiên Chúa muốn, “nhưng là vì dân chúng cứ
tiếp tục nhạo báng các sứ giả của Thiên
Chúa, coi thường Lời của Người, nhạo
báng các tiên tri, cho tới khi cơn thịnh nộ của
Thiên Chúa đổ lên dân của Người, và vô
phương cứu chữa.” Chỉ khi
đó, quân đội Babylon mới đến tấn công họ.
Quân Babylon ngạo mạn
đến đánh chiếm đất Ít-ra-en. Trẻ già đều bị họ giết mà
“chẳng chút xót thương, bất kể là phụ
nữ, người già hay kẻ yếu đuối”.
Tài sản và của cải bị cướp
được chuyển hết về Babylon; Đền
thờ bị thiêu hủy bình địa, các bức
tường của thành Giê-ru-sa-lem bị triệt hạ;
còn những ai không bị giết thì bị bắt đi
lưu đày ở Babylon và trở thành những nô lệ.
Thế rồi bên bờ sông Babylon,
họ ngồi than khóc tội lỗi của mình, và Thiên Chúa
lại đến với dân Do thái bị lưu đày, và
yên ủi họ rằng sẽ đến một ngày
họ sẽ được trở về quê hương
của mình. Sau khi vua Cyrus của Ba Tư cùng quân đội
của nhà vua chiến thắng đế quốc Babylon, dân
Do thái được phép quay trở về quê hương
của mình để xây dựng lại, và điều này
đã “hoàn thành lời hứa của Thiên Chúa đã nói qua
miệng của ngôn sứ Giê-rê-mi-a”. Thế là dân Do thái
đã bước từ nơi tăm tối sang miền
ánh sáng.
Chuyện Thiên Chúa đến cứu
độ dân của Người như vậy chẳng
phải do dân Do thái giờ đây đã biết sống công
chính, nhưng vì Thiên Chúa dủ lòng thương xót dân
của Người. Qua Ét-ra, Nê-hê-mia và Hắc-gai, chúng ta
biết dân Do thái cần phải quay trở về và tuân
giữ những lề luật của Thiên Chúa mà đã
họ lãng quên, canh tân đổi mới cuộc sống và
tái xây dựng lại Đền thờ đã bị phá
hủy. Thiên Chúa không chờ đợi cho
đến khi họ phải đạt tới một
cuộc sống công chính trước đã, nhưng chỉ
cần hội đủ những điều kiện
để sự công chính có thể nở hoa.
Đây chính là điều mà tác giả thư gởi các tín hữu Ê-phê-xô đã nói
tới. Thánh Phao-lô đã nói về việc
Thiên Chúa đến với con người “ngay cả khi
chúng ta phải chết vì tội lỗi của mình”.
Thiên Chúa đến để ban thưởng cho chúng ta,
không phải vì chúng ta đã đạt tới một
mức độ công chính cần thiết nào đó,
nhưng vì Thiên Chúa xót thương và Người muốn
đặt chúng ta “đồng ngự trị trên
nước trời với Đức Ki-tô, để
tỏ cho hậu thế được thấy sự phong
phú dồi dào của ơn Chúa mà lòng nhân lành Chúa đã ban cho
chúng ta trong Đức Giê-su Ki-tô”. Tất cả những
chuyện này đã xảy ra như vậy là do sáng kiến
nhưng không của Thiên Chúa.
Thánh Phao-lô trong thư
gởi tín hữu Ê-phê-xô viết rằng: “Vì chưng,
bởi ơn Chúa, anh em được cứu rỗi
nhờ đức tin. Điều đó không phải do anh
em, vì đó là ân huệ của Chúa”.
Ơn cứu rỗi là một quà tặng, là một ân ban. Vì thế, chúng ta
được dạy rằng tất cả chúng ta
được cứu độ là “nhờ đức tin”
(pistis) vốn tự nó là một quà tặng. Ơn
cứu rỗi không thể là chuyện do chúng ta đạt
được, do mua bán hay mặc cả được,
nhưng đức tin là sự đáp trả thiết
yếu về phía con người. Đức tin là “quà
tặng nhưng không” của Thiên Chúa, cho phép chúng ta sống
đúng theo hình ảnh của Thiên Chúa, vì
chúng ta “được tạo dựng trong Đức Giê-su
Ki-tô để làm các việc lành (ergois agathois) mà Thiên Chúa
đã dự liệu, hầu chúng ta đem ra thực hành”.
Trong Tin mừng theo Thánh Gio-an, Đức
Giê-su nói với chúng ta rằng “Thiên Chúa đã yêu thế gian
đến nỗi đã ban Con Một mình, để
tất cả những ai tin Con Ngài thì không phải hư
mất, nhưng được sống đời
đời”. Hạn từ “tin” trong Ga 3,16 ở đây là
động từ của “pistis”, cùng một hạn từ
được dịch ra là “đức tin” ở trong
thư gởi tín hữu Ê-phê-xô. Tất cả những ai
tin (pisteuôn) vào Người Con của Thiên Chúa, thì đang làm
cho mình trở thành hình ảnh của Thiên Chúa để
được thông dự vào sự sống vĩnh
cửu, hay theo lối nói của thư Ê-phê-xô, là
“đồng ngự trị trên nước trời” với
Đức Ki-tô.
Chính Đức tin này cho phép chúng ta (dẫu
chúng ta còn sống trong tình trạng tội lỗi) vẫn
có thể nhìn ra rằng “sự sáng đã đến trong
thế gian” và “những ai hành động trong sự
thật thì đến cùng sự sáng, để hành
động (erga) của họ được sáng tỏ là
họ đã làm trong Thiên Chúa". Thư gửi tín hữu Ê-phê-xô
thì nói rằng chúng ta được tạo dựng
để làm “các việc lành”, trong khi Tin mừng Gio-an
lại nói những ai sống trong “sự sáng” thì thực
thi “những việc làm” của họ trong Thiên Chúa. Cũng
một hạn từ Hy lạp (ergon) được dùng cho
“các việc lành” trong thư gửi Ê-phê-xô và “những hành
động” trong Tin mừng Gio-an.
Ơn cứu rỗi của Thiên Chúa là ơn
mà chúng ta không xứng đáng, lại được
khởi sự với đức tin. Nhưng sự đáp
trả của chúng ta trước ân ban
của Thiên Chúa sẽ được thể hiện qua các
việc lành, “để hành động của họ
được sáng tỏ là họ đã làm trong Thiên Chúa.”
Những việc làm này tất nhiên không phải để
chúng ta xứng đáng được ơn cứu rỗi,
nhưng là sự đáp trả trong niềm vui trước
ân ban cứu độ do lòng
thương xót của Thiên Chúa.
Suy tư: Bạn hãy suy nghĩ xem cách nào
để ân ban nhưng không của Thiên
Chúa này sẽ giúp bạn thực hiện được
những việc lành.
|