Thầy là sự sống lại và là sự sống
(Chú giải của Lm FX Vũ Phan Long)
1.- Ngữ
cảnh
Với biến cố Đức Giêsu cho
Ladarô sống lại, chúng ta sang phần II của TM IV,
gọi là “Sách về Giờ của Đức Giêsu”
(11,1–20,29). Phân đoạn 11,1–12,50 là “phân đoạn làm
cầu”, ghi lại “Dấu lạ cao điểm và sự
kiện Giờ của Đức Giêsu đến”.
Bản văn đọc trong Phụng vụ
Thánh lễ hôm nay trích từ Ga 11,1-54 là phân đoạn nói
về Dấu lạ Đức Giêsu cho Ladarô sống
lại, nói về sự sống lại và sự sống,
và quyết định của Thượng Hội
Đồng là tìm cách giết Người.
Biến cố Đức Giêsu làm cho Ladarô
sống lại được đặt vào cuối
sứ vụ công khai của Đức Giêsu. Đây không
chỉ là hành vi quyền lực (= dấu lạ) cuối
cùng, nhưng là hành vi lớn lao nhất, bởi vì
Người không chỉ giới hạn vào việc chữa
lành mộtchứng bệnh, nhưng đưa
mộtngười từ cõi chết trở lại với
cuộc sống. Đây là dấu lạ quan trọng
nhất được nêu lên trong cuộc xét xử
giữa ánh sáng và bóng tối.
Những nét tiêu biểu của phép lạ này
là: Người thực hiện hành vi ấy cho
mộtngười bạn và giữa vòng các bạn hữu,
nhưng có nhiều người khác chứng kiến và các
chứng nhân này có tham gia vào hành vi của Người. Trong
các trường hợp khác, trước tiên Đức
Giêsu làm dấu lạ, rồi sau đó, trong những
đối thoại, Người mới đưa
người ta đến chỗ hiểu ý nghĩa của
dấu lạ. Còn ở đây, với nhiều lời công
bố, Người đã cho các môn đệ, các thân nhân và
dân chúng thấy trước ý nghĩa của hành vi
quyền lực sắp được thực hiện và
là điểm cao nhất trong các hành vi quyền lực.
Mọi sự đều đưa tới chỗ chứng
minh cho thấy là Người có quyền trên sự
chết.
Sự cố này xảy ra sau khi các
đối thủ của Người đã tìm cách bắt
Người (10,39). Đức Giêsu lui về vùng phía đông
sông Giođan. Tại đây Người nhận
được tin bạn Người là Ladarô đau ốm
(11,1-6). Sự cố này mở ra với bài diễn từ
cáo biệt và cuộc Thương Khó, bởi vì chính sự
cố này đưa đến chỗ Thượng Hội
Đồng kết án tử cho Đức Giêsu.
Đọc bản văn này, độc
giả cũng nên lưu ý đến tài nghệ tuyệt
luân của tác giả khi vận dụng các yếu tố
“sai thời gian” (anachronie) cũng như “nhắc lại”
(analepse), “báo trước” (prolepse), để giới
thiệu các điểm giáo lý sâu sắc được
chứa đựng trong bản văn. Chúng ta sẽ nói
đến điểm này trong phần “Ý nghĩa của
bản văn” [Có thể
đọc Lê Minh Thông, “Ga 11,1-54: “Chết” và “sống””, Phân
tích thuật chuyện và phân tích cấu trúc áp dụng vào Tin
Mừng thứ tư (2008) 141-179, để ghi nhận cách
áp dụng phương pháp phân tích thuật chuyện và
cấu trúc vào bản văn.].
2.- Bố
cục
Bản văn có thể chia làm năm
phần:
1) Đức Giêsu biết tin Ladarô đau
ốm (11,1-6);
2) Đức Giêsu chuẩn bị các môn đệ
(11,7-16);
3) Đức Giêsu gặp hai chị em
(11,17-38a);
4) Đức Giêsu cho Ladarô sống lại
(11,38b-44);
5) Kết luận: Ghi chú về đức tin
(11,45).
3.- Vài
điểm chú giải
- Ladarô (1): Tên La‘zar là cách gọi tắt tên
Eleazar (Êlêadarô), mộttên rất quen thuộc vào thời Tân
Ước. Eleazar có nghĩa là “Thiên Chúa trợ giúp”. Tác
giả TM IV không giải thích ý nghĩa của tên này.
- Bêtania (1): Có những người cho rằng
đây là mộttên có ý nghĩa tượng trưng, phái sinh
từ tên Bet-‘anya, “nhà của nỗi phiền sầu”. Làng
Bêtania gần Giêrusalem được mọi người
biết như là nơi Đức Giêsu trú ngụ khi lên
Giêrusalem (x. Mc 11,11; 14,3). Ngày nay, làng được gọi
là El ‘Azariyeh, mộttên phái sinh từ “Ladarô”.
- làng của hai chị em cô Mácta và Maria (1):
Sự kiện tác giả Ga xác định Bêtania là làng
của Mácta và Maria khiến có thể hiểu là các
độc giả quen biết hai cô.
- là người sau này sẽ xức dầu thơm
(2): Đây là một chi tiết rất đặc biệt
dành cho việc nhận diện Maria: “là người sau này
sẽ xức dầu thơm (dịch sát: “đã xức
dầu thơm”) cho Chúa, và lấy tóc lau (dịch sát: “đã
lấy tóc lau”) [Xem Bản
dịch Nguyễn Thế Thuấn] chân Người.
Đây là một lời vừa nhắc lại vừa
đón trước: việc xức dầu ở Bêtania
chỉ xảy ra ở chương sau (12,1-11), tại sao lại
nhắc trước (“đã”) một hành vi chưa
được bản văn nói đến? Ở đây,
tác giả không đứng trên bình diện truyện kể,
nhưng trên bình diện dàn dựng câu truyện, và ngỏ
lời trực tiếp với độc giả.
Độc giả đã biết Maria đóng vai trò nào vào
đầu truyện Thương Khó; vai trò này
được ghi nhớ rất rõ trước cả khi
TM IV được soạn thảo. Tác giả nại
đến ký ức của độc giả nên mới nói
về Maria như ở quá khứ (thì quá khứ hoàn thành).
Như thế, lời nhắc vận hành trong trí độc
giả, còn ở bình diện truyện kể, nó mang sắc
thái một lời đón trước.
- Thưa Thầy (3): Từ ngữ Kyrios
được dùng ở hô-cách (vocative); Kyrie, có thể
dịch là “Thưa Ngài”. R.E. Brown cho rằng có thể
dịch là “Lạy Chúa”, bởi vì ở đây những
người tin đang lên tiếng. Xem 11,21.32.
- thêm hai ngày (6): Một vài tác giả gợi ý
rằng có mộtsự kết nối với phép lạ
thứ hai ở Cana, cũng là mộtphép lạ ban sự
sống và xảy ra sau khi Đức Giêsu đã ở
lại Samari hai ngày (4,40.43). Có những tác giả khác cho
rằng có mộtsự tương đồng với
sự phục sinh của Đức Giêsu, vì biến cố
này xảy ra vào ngày thứ ba (x. 1 Cr 15,4). Người
cũng đã chờ hai ngày trước khi lên Giêrusalem
để dự lễ Lều (7,8-10). Với lại ở
tiệc cưới Cana, Người
đã không đáp ứng ước nguyện của
Đức Maria ngay. Không mộtý kiến, mộtnguyện
ước nào của loài người, cho dù đúng
đắn, lại có thể chỉ cho Người cách
xử sự; chỉ có ý muốn của Chúa Cha mới có
quyền điều khiển Người mà thôi (4,34; 7,18;
8,29). Người nói và hành động vì vinh quang của
Chúa Cha, để thực hiện chương trình cứu
độ. Và ơn cứu độ Thiên Chúa ban sẽ
được hoàn tất vào thời Ngài đã
định; không một ai có thể thúc bách Ngài tiến hành
trước giờ. Người ta không thể bắt
Đức Giêsu hay ném đá Người bao lâu giờ
của Người chưa đến (7,30; 8,20; x. 9,4;
10,17-18).
- Thưa Rabbi (8): Đây là lần cuối cùng
các môn đệ thưa với Đức Giêsu bằng danh
hiệu rabbi. “Rabbi” cũng được dùng ở 9,2. Có
thể so sánh để thấy những điểm
tương đồng giữa 9,2-5 và 11,8-10.
- ánh sáng mặt trời (9): dịch sát là “ánh
sáng của thế gian này”. Như thế, công thức này có
nghĩa là “mặt trời”. Nhưng trên bình diện
thần học, đây là mộtquy chiếu về Đức
Giêsu (8,12; 9,5).
- đang yên giấc (11): Trong tiếng Híp-ri và Hy
Lạp (tiếng Hy Lạp dân gian cũng như hy-ngữ
của Bản LXX), “ngủ” là một uyển ngữ
(euphemism) để chỉ cái chết (x. Mc 5,39; Cv 20,10).
Nhưng các môn đệ lại không hiểu. Trong Kinh Thánh,
chết là hậu quả của tội lỗi, và như thế
là hình phạt thê thảm nhất (x. St 2,7; Kn 1,15). Tuy nhiên,
cái chết mất phần nào tích cách bi đát khi nó đóng
ấn mộtcuộc đời hạnh phúc vẫn
tiến đi trong tình nghĩa với Thiên Chúa (các tổ
phụ: St 25,7; 35,29; vua Đavít: 1 V 2,10; người công
chính: Kn 3,1-3). Đức Giêsu, dấu chỉ của tình yêu
Thiên Chúa, sẽ giải thoát chúng ta khỏi tội lỗi
và sự chết. Chính vì thế, trong Tân Ước,
những ai chết mà vẫn tin vào Đức Kitô, thì
chỉ là yên nghỉ (= ngủ; 1 Tx 4,14; x. Cv 7,60; Mt 27,52), vì
Đức Kitô là hoa trái đầu mùa của những ai
đã yên giấc (1 Cr 15,20).
- được bốn ngày rồi (17): Chi
tiết này được ghi nhận để chứng
thực là Ladarô đã chết. Có một ý kiến trong
giới kinh sư cho rằng linh hồn bay là là gần thân
xác trong ba ngày; sau đó thì không còn hy vọng hồi sinh nữa.
- Maria thì ngồi ở nhà (20): Các phụ nữ
có tang thường ngồi trên nền nhà (x. Ed 6,39-45). Do c.
29, ta đoán là Maria không được báo cho biết là
Đức Giêsu đã đến.
- Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa (27): Câu
này tương tự lời tuyên xưng của Phêrô ở
Mt 16,16.
- Thầy (28): Từ ngữ Hy Lạp didaskalos
tương tự với rabbi ở 1,38 và 20,16. Đức
Giêsu sử dụng ở 3,2.10; 13,13.14.
- thổn thức trong lòng và xao xuyến (33):
“Thổn thức trong lòng” là dạng aorist middle của
động từ embrimasthai (x. c. 38). Động từ này
được dùng với công thức tô pneumati, “trong tinh
thần”, còn ở c. 38, động từ ấy lại
được dùng với en heautô, “trong chính mình”. Đây là
những công thức Sê-mít để diễn tả các
cảm xúc bên trong. Công thức thứ hai, “xao xuyến”,
dịch từ cụm từ tarassein heauton. Tarassein hàm ý
mộtsự xáo trộn sâu xa; ở đây dùng với
đại từ phản hồi, có nghĩa chữ là
“bối rối, luống cuống”. Các học giả đã
tự hỏi ý nghĩa của các tình cảm này là gì. Có
những người thấy đây là cơn giận
của Đức Giêsu nhằm chống lại cái chết
và tác giả của nó là Satan; có những người khác
thì cho rằng đây là cơn giận của Người
khi đứng trước sự cứng lòng của
người Do Thái. Rất có thể là như thế,
bởi vì cái chết và sự cứng lòng đều do
Satan; và trong thực tế, đặc biệt trong Mc,
Đức Giêsu tỏ ra giận dữ vào lúc Người
trừ quỷ, nghĩa là khi Người đối
diện với Satan. Tuy nhiên, trong TM IV, ý nghĩa còn sâu
sắc hơn.
Ngoại trừ một lần động
từ tarassein được dùng ở 5,7 để nói
về nước hồ bị khuấy động và dùng
ở đây, động từ này chỉ được
dùng trong khung cảnh cuộc Thương Khó: 2 lần dùng
cho Đức Giêsu (12,27; 13,21) và 2 lần cho các môn
đệ (14,1.27). Nỗi xao xuyến và sợ hãi của
Đức Giêsu, được các TMNL kể lại trong cuộc
hấp hối tại vườn Ghếtsêmani,
dường như được Ga chuyển vào truyện
này và vào cuộc gặp gỡ với người Hy Lạp
(12,27). Cái chết của Ladarô được Đức
Giêsu thấy như là lời loan báo về cái chết
của Người và cuộc chiến thắng nhất
thời trên bóng tối. Đối với Ga, cuộc
Thương Khó và cái chết của Đức Giêsu chủ
yếu là công trình của Satan và cuộc sống lại
của Người là chiến thắng trên Satan và cái
chết.
- Đức Giêsu khóc (35):
Đức Giêsu đã có mộtthái độ hết sức
nhân bản khi đứng trước nỗi đau
của người khác. Người ta hiểu là
Đức Giêsu thật sự yêu thương Ladarô. Ở
đây tác giả Ga dùng một động từ để
chỉ việc Đức Giêsu “khóc” (dakryô, “[để cho]
nước mắt tuôn trào”: c. 35) khác với động
từ để chỉ người ta “khóc” (klaiô, “khóc
một cách tuyệt vọng”: x. cc. 31.33), mà động
từ này lại giống với động từ tác
giả Lc dùng để nói về việc Đức Giêsu
khóc khi nhìn thấy Giêrusalem (x. Lc 19,41: klaiô). Tuy nhiên trong TM
Ga, người ta thường chỉ hiểu các lời
nói và các cử chỉ của Đức Giêsu theo chiều
kích bên ngoài và hời hợt. Nếu Đức Giêsu sắp
cho bạn Người sống lại, tại sao
Người còn khóc? Như thế, rất có thể ở
đây Đức Giêsu khóc, còn vì sự không tin của
người Do Thái và thái độ bán tín bán nghi của Mácta
(c. 39) và của Maria.
- Ngôi mộ đó là một cái hang có phiến đá
đậy lại (38): Mộ đứng như cái
giếng thì thông dụng hơn mộ nằm ngang. Tảng
đá giữ thi hài khỏi bị thú vật xâm phạm.
Nơi an táng ở ngoài thành vì nếu không, những
người sống có thể bị ô uế do tiếp xúc
với thi hài người chết.
- Đức Giêsu ngước mắt lên (41):
Cử điệu ngước mắt nhìn lên là mộtcách
mở đầu tự nhiên cho việc cầu nguyện
(x. Lc 18,13; Ga 17,1).
- Người kêu lớn tiếng (43):
Động từ kraugazein chỉ được dùng 8
lần trong toàn Kinh Thánh Hy Lạp (Bản LXX), mà 6 lần
ở trong Ga. Ở Ga 18–19, động từ này
được dùng 4 lần để nói về tiếng la
hét của đám đông xin đóng đinh Đức Giêsu.
Như vậy, dường như có thể rút ra
mộtsự tương phản giữa tiếng kêu
lớn của đám đông nhằm đưa cái chết
đến cho Đức Giêsu và tiếng kêu lớn của
Đức Giêsu nhằm đưa sự sống đến
cho Ladarô. Thật ra giải thích như thế cũng không
bảo đảm, vì ở 12,13, động từ này
diễn tả tiếng la của đám đông nhằm hoan
hô Đức Giêsu.
- chân tay còn quấn vải (44): Có người
hỏi là làm thế nào mà bị quấn như thế mà
Ladarô vẫn có thể đi được. Câu hỏi này
không đúng chỗ vì đặt ra trong mộtbài tường
thuật minh nhiên giả thiết có chuyện siêu nhiên. Có
thể do mộtlý do thần học mà tác giả đã
nhắc đến những thứ khăn liệm. Ở
20,6-7, chúng ta biết rằng các khăn và vải liệm
Đức Giêsu đã bị bỏ lại trong mồ, có
thể là với ý là Người chẳng bao giờ
cần đến chúng nữa, bởi vì Người không
bao giờ chết nữa; còn Ladarô thì đi ra với
khăn vải liệm, bởi vì anh còn chết lần
nữa. Cách giải thích này nhiều gợi ý, nhưng không
chắc là tác giả có nghĩ đến số phận
tương lai của Ladarô.
4.- Ý nghĩa
của bản văn
Câu chuyện đưa ta đến gặp
một gia đình đặc biệt: chỉ có các chị
em mà thôi. Thế rồi có những chi tiết khiến phát sinh
những câu hỏi: Tại sao Đức Giêsu cố tình
đến chậm? Làm thế nào Mácta và Maria biết là
Đức Giêsu đang đến? Làm thế nào Đức
Giêsu có thể nói được rằng bất cứ
kẻ nào tin vào Người thì sẽ không phải chết
bao giờ? Tại sao Đức Giêsu lại khóc khi đã
biết rằng Người sắp cho Ladarô trỗi
dậy từ cõi chết?
* Đức Giêsu biết tin Ladarô đau ốm (1-6)
Đức Giêsu đã lui về mạn
đông sông Giođan để tránh các đối thủ
đang tìm cách bắt Người. Tại đây
người ta báo tin cho Người là Ladarô đau ốm;
ông này “quê ở Bêtania, làng của hai chị em cô Mácta và
Maria” (11,1). Ladarô, em của cô bị đau ốm” (c. 2).
Maria được giới thiệu bằng một câu
đón trước: “là người sau này đã xức
dầu thơm và lấy tóc lau chân Người” (c. 2). Còn
Mácta được giới thiệu trước tiên
như một người bạn (c. 5), rồi như
một môn đệ của Đức Giêsu (“Thưa Ngài,
Kyrie”: c. 21). Gia đình không cha mẹ, vợ chồng
hoặc con cái này khiến ta có thể hiểu đây là
một ám chỉ đến cộng đoàn Kitô hữu,
nơi chỉ có các anh em chị em thôi.
Cũng như Đức Maria tại tiệc
cưới Cana (2,3), các chị của Ladarô đã không
trực tiếp bày tỏ mộtlời thỉnh cầu.
Các cô không muốn truyền lệnh cho Người bất
cứ điều gì. Biết đâu các cô cũng đang
nghĩ tới nguy hiểm có thể xảy ra cho
Người nếu Người đến gần Giêrusalem
(x. 11,8). Các cô chỉ đơn giản báo cho Người
biết tình trạng của Ladarô và nhắc Người
nhớ rằng anh là bạn Người. Tại Cana,
Đức Giêsu đã thực hiện dấu lạ
đầu tiên tại tiệc cưới của mộtgia
đình bằng hữu; rồi Người đã làm
những hành vi quyền lực khác cho những người
mà Người không quen biết. Lần này những
điểm được nhấn mạnh là tình yêu
thương và tình bằng hữu vẫn liên kết
Người với các chị em Bêtania (x. 11,3.5.11.36): tình yêu
thương và tình bằng hữu diễn tả sự ân
cần riêng tư của Đức Giêsu đối với
chúng ta là loài người. Người không theo đuổi
mộtchương trình vật chất nào, trong đó
kết quả thống kê quan trọng hơn những con
người. Người coi chúng ta, những con
người, là như những nhân vị mà Người
quan tâm chiếu cố.
Dọc theo bài tường thuật, bằng
nhiều cách diễn tả, tác giả cứ nhắc đi
nhắc lại là Đức Giêsu không có mặt (cc.
6.17.19.21.32.37). Mục đích là nêu bật tình trạng
tăm tối, không hiểu, của dân chúng trước cách
xử sự của Đức Giêsu: theo kiểu nhìn của
loài người, Đức Giêsu đã phải can thiệp
mà cứu chữa Ladarô khi ông này còn sống mới phải.
Câu hỏi được đặt ra là làm thế nào
giải thích được sự kiện là các bạn
của Đức Giêsu cũng chết mà Người không
can thiệp gì?
Tác giả dùng thêm ba lời đón
trước để cho thấy ý nghĩa của cái
chết của Ladarô, hoặc cho thấy sự cương
quyết của Đức Giêsu và lúc bạn Người
chết (cc. 4.11.16). Ba lời đẩy vào tương lai
gần như thế nêu bật sự khác biệt trong
nhận thức của Đức Giêsu, là người
biết rõ chương trình của Thiên Chúa, và các môn
đệ, đầy sợ hãi và không hiểu gì.
* Đức Giêsu chuẩn bị các môn đệ
(7-16)
Trước hết, Đức Giêsu chuẩn
bị cho các môn đệ đón nhận hành vi quyền
lực Người sắp thực hiện. Sau dấu
lạ Cana, tác giả TM IV đã nhận định:
“Đức Giêsu đã làm dấu lạ đầu tiên này
tại Cana miền Galilê và bày tỏ vinh quang của
Người. Các môn đệ đã tin vào Người”
(2,11). Đức Giêsu hiểu đâu là mục tiêu của
chứng bệnh của Ladarô (x. 9,3): “Bệnh này không
đến nỗi chết đâu, nhưng là dịp
để bày tỏ vinh quang của Thiên Chúa: qua cơn
bệnh này, Con Thiên Chúa được tôn vinh” (11,4). “Vinh
quang của Thiên Chúa” không phải là mộtvinh dự ích
kỷ dâng lên Thiên Chúa, bất kể tình trạng của các
thọ tạo. Trong Cựu Ước, mỗi khi Thiên Chúa
bày tỏ vinh quang của Ngài thì luôn luôn là để cứu
độ loài người, những kẻ Ngài yêu
thương. Vinh quang này của Chúa Cha sẽ
được thể hiện qua việc tôn vinh
Đức Giêsu qua các phép lạ (2,11; 12,41), nhưng nhất
là khi Người chịu giương cao trên thập giá,
rồi Người chết và sống lại (12,23-32).
Khi để cho Ladarô chết, Đức
Giêsu muốn bảo chúng ta rằng Người không
đến để ngăn chặn cái chết thể lý:
công việc của Người không phải là phá vỡ
dòng lưu chuyển tự nhiên của đời sống
con người. Cuộc sống có một điểm
chấm dứt, chứ không kéo dài mãi mãi. Người không
đến để làm cho cuộc đời này thành
vĩnh cửu, nhưng để ban cho chúng ta một
đời sống khác không có cùng tận. Nhất là
Người đã tuyên bố cho biết đâu là mục
tiêu của chứng bệnh của Ladarô: “để anh em
tin” (11,15). Tất cả các hành vi quyền lực của
Đức Giêsu đều được thực hiện
để Thiên Chúa được rạng rỡ vinh quang,
được tỏ mình ra và nên khả thị. Nhờ
những hành vi này, chính Thiên Chúa tỏ mình ra, không phải
trong bản tính trừu tượng của Ngài, nhưng
trong cách cư xử ân cần cụ thể đối
với loài người chúng ta. Thiên Chúa tỏ mình ra là “Ta là
Đấng Ta là” và cho thấy điều này đúng
với chúng ta đến mức độ nào. Trong tư
cách là hành vi của Thiên Chúa được Đức Giêsu
thực hiện, hành vi quyền lực này cũng mạc
khải cho thấy Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, là
Đấng mà Chúa Cha đã sai phái đến với chúng ta
và nhờ Người mà chúng ta có thể biết Thiên Chúa
(x. 1,18). Tương ứng với hành vi tự mạc
khải của Đức Giêsu, là hành vi các môn đệ tin
vào Người. Hành vi Đức Giêsu làm cho Ladarô phải
củng cố các môn đệ trong đức tin và cho
họ thấy chính xác hơn họ có thể chờ
đợi gì nơi Đấng mà họ đã tin
tưởng. Đức Giêsu đã hai lần mời họ
đi theo Người về Giuđê (11,7.15). Họ
biết điều gì sẽ có thể xảy ra cho
Người, và cả cho họ nữa. Họ tín nhiệm
nơi Người và trở thành những chứng nhân
về cách Đức Giêsu, mặc dù có nguy hiểm
đến tính mạng Người, đã làm cho Ladarô đã
chết được sống lại.
Các môn đệ đã linh cảm là giờ kết
thúc bi thương cuộc đời Đức Giêsu đã
gần kề: “Người Do Thái hiện đang tìm cách ném
đá Thầy, mà Thầy lại còn đi tới nơi
ấy sao?” (c. 8). Đối với Đức Giêsu, cứu
Ladarô sẽ là đi gặp chính bản án tử hình của
Người. Vinh quang do phép lạ sẽ là dấu chỉ
cuộc tôn vinh Người trên thập giá. Đức Giêsu
giải thích cho các môn đệ hiểu rằng tất
cả đều nằm trong chương trình của Thiên
Chúa, thuộc về “giờ” của Thiên Chúa. Nhưng
dường như Người không đánh tan
được nỗi lo lắng, vì Tôma lại đại
diện anh em mà nói: “Chúng ta hãy đi để cùng chết
với Thầy!” (c. 16).
* Đức Giêsu gặp hai chị em (17-38a)
Hoàn cảnh của Đức Giêsu tại
Bêtania được mô tả bằng hai đặc
điểm: Ladarô đã ở trong mồ được
bốn ngày và có nhiều người quen biết
đến với hai chị em. Theo quan niệm thời
đó, chết được ba ngày thì cũng chưa hoàn
toàn chết; chỉ đến ngày thứ tư thì sự
sống mới hoàn toàn tắt mất. Tác giả muốn
chúng ta biết rằng Ladarô đã chết thật rồi.
Tất cả những người quen
biết gia đình đã ở đó mà đành chịu
bất lực khi đứng trước cái chết, và
chỉ còn biết an ủi cách yếu ớt (11,19.31).
Đức Giêsu chính là Đấng duy nhất có thể
thật sự thay đổi điều gì đó trong tình
cảnh này và có thể đưa lại sự nâng
đỡ đích thực bằng quyền lực thần
linh của Người. Mácta đã đến găp
Người và nói: “Thưa Ngài, nếu có Ngài ở đây
thì em con đã không chết!” (11,21). Dường như hai
chị em đẵ lặp đi lặp lại câu này trong
những lúc khóc em (x. 11,32.37). Qua lời này, hai chị
biểu lộ niềm tin vào Đức Giêsu là Đấng
có thể chữa lành những người đau ốm,
nhưng cũng biểu lộ nỗi thất vọng là
Người đã không đến đúng lúc. Nhưng
rồi Mácta đã cho thấy rằng chị tin vào việc
sống lại của kẻ chết. Khi bày tỏ niềm
tin vào việc kẻ chết sẽ sống lại trong
tương lai cánh chung, Mácta đã chứng tỏ là một
môn đệ và đại diện cho các Kitô hữu thế
kỷ đầu tiên đang tập sống niềm tin vào
Đức Kitô Phục Sinh trong hiện tại. Chỉ có
tin vào Đức Giêsu, người ta mới có thể
vượt qua sự chết mà vào sự sống.
Nhưng Đức Giêsu cho các chị thấy
rằng sự sống lại là do Người ban: “Chính
Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin
vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ
được sống. Ai sống và tin vào Thầy, sẽ
không bao giờ phải chết” (11,25-26). Cho đến nay,
Đức Giêsu đã tự xưng mình là bánh, nước,
ánh sáng và người mục tử nhân hậu;
Người đã quy chiếu về chính mình Người
những thực tại mà nhất thiết cuộc
sống trần thế của chúng ta phải lệ
thuộc vào. Nay cũng bằng cách đó, Người
khẳng định rằng chúng ta lệ thuộc vào Người
để được sống muôn đời. Nơi
Người, Thiên Chúa hiện diện cho chúng ta (“Ta là
Đấng Ta là”) như là Đấng lôi kéo chúng ta khỏi
cái chết và đưa chúng ta vào trong cuộc sống
bất tử của Người. Cuộc phục sinh
giả thiết có cái chết và có nghĩa là trỗi
dậy thoát khỏi tình trạng nằm dài cứng ngắc
của cái chết; sống là kết hợp với Thiên
Chúa. Hai điều này được Đức Giêsu ban cho
chúng ta và được liên kết với nhau trong
đức tin. Đức Giêsu ban sự sống này cho ai tin
vào Người. Sự sống được Đức
Giêsu ban đây phải đi qua cái chết, nhưng không
bị dập tắt. Sự kết hợp với Thiên Chúa
do Đức Giêsu ban cho không biết đến kết thúc
hoặc tình trạng hoàng hôn. Trong tình cảnh này Đức
Giêsu đã khóc, vì thương Ladarô, nhưng cũng còn là vì
thái độ không tin và thái độ nửa tin nửa
ngờ của Mácta (c. 39) và của Maria.
Điều mà Đức Giêsu làm cho Ladarô là
mộtdấu chỉ (dấu lạ). Ladarô đã chết,
Đức Giêsu gọi anh ra khỏi mồ, nhưng
đưa anh trở lại với cuộc sống
trần thế, từ đó anh lại đi tới cái
chết. Bằng hành vi này, Đức Giêsu chứng minh cho
thấy là cái chết không phải là một giới hạn
đối với Người, nhưng Người có
quyền trên cái chết. Tuy nhiên, ân ban đích thực
của Người không phải là mộtcuộc sống
trần thế được kéo dài mãi mãi, mà là cuộc
sống trong sự hiệp thông vĩnh cửu với Thiên
Chúa.
Đức Giêsu muốn đưa cả
Mácta, cũng như các môn đệ Người,
đến với đức tin. Cô hiểu, cô tin và nói lên
mộtlời tuyên xưng đức tin mà chúng ta chỉ
gặp ở cuối TM Ga (20,28.31) và là lời
được hàm chứa trong lời tuyên bố của
Phêrô (6,69) và của anh mù được chữa lành (9,38).
Với cô, Đức Giêsu đạt mục tiêu mà công trình
của Người đã nhắm tới trước:
mắt của cô đã mở ra. Mácta hoàn toàn ở thế
ngược lại với các đối thủ của
Đức Giêsu, những người đã trách
Người là nói phạm thượng chống lại
Thiên Chúa. Cô nhận biết Người là Đấng Thiên
Chúa dùng để thực hiện công trình cứu
độ cho loài người (“Đức Kitô”) và là
Đấng sống trong mộtsự hiệp thông không có
khởi đầu cũng không có kết thúc với Thiên
Chúa, trong sự bình đẳng tuyệt đối với
Người (“Con Thiên Chúa”). Và cũng như Đức
Giêsu, Mácta nêu bật tương quan của Đức Giêsu
với Chúa Cha: Người đã đến trong trần
gian bởi vì được Chúa Cha sai phái đi; đàng sau
tất cả những gì Người làm, chính là Chúa Cha làm
(x. 11,42; 16,28).
* Đức Giêsu cho Ladarô sống lại (38b-44)
Đức Giêsu bảo người ta dẫn
Người ra mộ Ladarô. Hai người chị và
nhiều người khác đã đến để săn
sóc hai cô cùng đi với Người. Chung quanh
Người, vang lên tiếng than khóc của đoàn
người bất lực trước sức mạnh tàn
nhẫn của cái chết. Có hai cách khóc. Có cách khóc của
những người chắc chắn rằng cái chết là
sự chấm dứt mọi sự (klaiô). Cũng có cách
Đức Giêsu khóc (dakryô) tại mộ Ladarô, bình lặng
và chứng tỏ con người có phẩm cách. Mất
một người thân là điều rất đau lòng;
nhưng sẽ rất là ích kỷ nếu muốn giữ
người ấy lại cho riêng mình, trong khi người
đó đang đi vào một cuộc sống tốt
đẹp hơn trước.
Đức Giêsu cho cất tảng đá che
mộ đi. Tảng đá có đó để ngăn cách
thế giới người sống với thế giới
kẻ chết, nhưng đối với những ai tin vào
Đức Giêsu, sự chia cách này không còn nữa. Thế rồi
Người quay hướng về Chúa Cha khi cầu
nguyện, đây là điều Người chưa bao
giờ làm trong những hành vi quyền lực trước
đây. Đây là lời cầu nguyện đầu tiên
của Người được tác giả Ga nhắc
lại (x. 12,27-28; 17,1-26). Trước tiên, Người
tạ ơn Chúa Cha vì Ngài đã lắng nghe lời
Người. Về phần Người, Đức Giêsu
tuyệt đối chắc chắn về sự kết
hợp của Người với Chúa Cha, nên không cần
phải chứng minh cho Người bằng mộthành vi
quyền lực. Nhưng điều mà Người
nhấn mạnh là để cho người ta tin. Chỉ
khi người ta tin vào Người, Đức Giêsu
mới có thể thực hiện công trình của
Người hầu cứu độ loài người.
Ở đây, c. 42 là lời nhắc lại để nêu bật
tư cách Đức Giêsu là sứ giả Chúa Cha sai phái:
Đức Giêsu bình luận các lời nói của chính
Người để giúp đám đông hiểu rằng
Người là sứ giả của Thiên Chúa.
Đối với Ladarô, người ta
phải lăn tảng đá và cởi khăn và vải cho
anh, còn trong việc Đức Giêsu sống lại, các phụ
nữ chỉ có thể chứng kiến sự kiện:
tảng đá đã được lăn ra một bên, và
khăn liệm đã được đặt riêng ra
(20,1-7); các thiên thần có mặt chỉ là để giúp các
môn đệ ý thức về sự kiện.
* Kết luận: Ghi chú về đức tin (45)
Tất cả mọi người trong
chuyện đều chứng tỏ họ thiếu
đức tin cách nào đó. Nay “có nhiều kẻ đã tin
vào Người” (c. 45). Trọng tâm của đức tin,
cũng như lâu nay, là tương quan của Đức
Giêsu với Chúa Cha. Loài người phải tin rằng Chúa
Cha đã sai phái Đức Giêsu và đàng sau tất cả
những gì Đức Giêsu thực hiện và nhận là
của mình, chính là Chúa Cha. Cả hành vi quyền lực to
lớn này của Đức Giêsu cũng là mộttrợ
giúp niềm tin.
+ Kết
luận
Là con người, chúng ta sẽ phải
chết. Mỗi người, từ thuở bắt
đầu cuộc hiện sinh, đều đi về cái
chết. Đứng trước cái chết, chúng ta cảm
nhận mộtgiới hạn tuyệt đối và
mộtsự bất lực hoàn toàn của chúng ta. Chúng ta có
thể trì hoãn cái chết, chứ không thể tránh nó
được. Và chúng ta không thể nào đưa
được mộtngười đã chết trở
lại với cuộc sống được. Trái lại,
Đức Giêsu đã làm cho cái chết trở thành nhất
thời và tạm bợ giống như giấc ngủ.
Người sẽ làm cho chúng ta trỗi dậy khỏi cái
chết và ban cho chúng ta sự sống đời
đời. Muốn thế, chúng ta phải tránh thái
độ cứng lòng của người Do Thái, cả thái
độ nửa tin nửa ngờ của hai chị em Mácta
và Maria, để tin hoàn toàn vào Đức Giêsu.
5.- Gợi ý suy
niệm
1. Câu truyện chúng ta đọc hôm nay cho
thấy là mục tiêu của Con Thiên Chúa nhập thể
không phải là giải quyết những vấn đề
trước mắt, như cái ăn cái mặc, các chứng
bệnh. Người có làm các phép lạ để giải
quyết các vấn đề đó, nhưng để các
phép lạ đó trở thành dấu chỉ đưa
người ta đến đức tin. Chỉ khi người
ta tin vào Người, các vấn đề ấy mới
được giải quyết tận căn, vì
Người sẽ ban cho người ta sự sống
đời đời.
2. Khi hình dung ra rằng tôi cũng đang
đi trên con đường đưa đến cái
chết, tức khắc tôi nhận ra được giá
trị của mỗi sự việc tôi đang đảm
nhận, mỗi sự vật tôi đang sở hữu. Tôi
biết điều gì là quan trọng thật, cái gì là
tương đối. Tôi hiểu rằng tôi phải tìm
chỗ tựa bảo đảm đưa tôi đến
cuộc sống vĩnh cửu. Hôm nay điểm tựa
ấy được giới thiệu: Đức Giêsu
Kitô, Con Thiên Chúa. Nhờ tin vào Người, tôi nhận
thấy cái chết không còn là mộtsức mạnh bách
chiến bách thắng, mộtđịnh mệnh bi đát
mà con người phải gánh chịu nữa. Cái chết
lúc đó chỉ có tính cách tạm thời, như
mộtcửa ngõ đưa tôi vào cuộc sống vĩnh
cửu.
3. Ngày hôm nay, chúng ta có thể ghi nhận
biết bao dấu chỉ cho thấy sự chết đang
tìm cách lan tràn, nhưng sự sống cũng vẫn
mạnh mẽ vươn lên. Dựa vào mình, sống theo
tính ích kỷ và kiêu ngạo, con người sẽ rơi
vào thất vọng khi trải nghiệm tất cả
những giới hạn của thân phận thọ tạo.
Đức Giêsu mời gọi chúng ta vượt quá
những giới hạn này, nhờ có Thánh Thần chan hòa
trong lòng, bằng cách lắng nghe giáo huấn của
Người và đưa ra thực hành, bằng cách sống
và chết như Người.
4. Sự can thiệp của Đức Giêsu
cho thấy Thiên Chúa không phải là mộtĐấng Vô Biên
xa vời, không hề quan tâm đến các thọ tạo
của Người. Thiên Chúa đã nhập thể
để làm người, mang mộttrái tim loài
người. Người có thể cảm động, xao
xuyến. Người yêu thương các bạn hữu
của Người. Nhưng Người cũng bung
quyền năng của Người ra để cho Ladarô
sống lại, hầu chỉ cho chúng ta con
đường sống thật.
5. Đức Giêsu đã cho Ladarô sống
lại, vì Người là Lời tạo dựng của
Thiên Chúa. Thế nhưng một ngày kia, Người sẽ
chết, để rồi các đối thủ có thể
chế nhạo đủ cách. Nhưng đó là vì
Đức Giêsu không muốn cứu lấy mộtmình
Người. Khi đảm nhận thân phận con
người chúng ta cho đến chết, Lời ban sự
sống của Người không còn ở bên ngoài chúng ta
nữa. Người thắng cái chết bằng cách đi
xuyên qua nó. Nhờ đó, Người cứu
được tất cả mọi người.
|