Khóc.
Đức Kitô không phải chỉ là một vị Thiên Chúa uy
quyền, mà còn là một người như chúng ta. Ngài cũng có một
trái tim và trái tim
ấy cũng biết rung động, cũng mang lấy những tình cảm dạt dào.
Thực vậy, trước
sự ngoan cố của bọn biệt phái, Ngài đã
nổi giận. Trước sự giả hình của họ, Ngài đã đe
loi. Trước sự
buôn bán nơi đền thờ, Ngài đã nổi nóng và xua
đuổi. Trước
cảnh bơ vơ của dân chúng, Ngài
đã động lòng thương xót. Trước đám đông đang đói khát vì đã
theo Ngài những ba ngày rồi, Ngài đã làm
phép lạ cho bánh hóa
nhiều để nuôi dưỡng họ. Ngài đã chúc lành
cho các em
nhỏ, đã chữa khỏi những bệnh hoạn tật nguyền để xoa dịu nỗi
đớn đau của dân chúng.
Nơi vườn cây dầu, Ngài đã buồn sầu đến nỗi mồ hôi máu chảy
ra nhỏ xuống đất. Đặc biệt hơn cả, đó là Ngài đã khóc.
Khóc vì Giêrusalem
sẽ bị đổ vỡ hoang tàn. Khóc
vì thương xót Lagiarô.
Tuy nhiên, Ngài luôn giữ được thế quân bình trong
đời sống tình cảm. Trước tình thế căng thẳng nơi vườn cây dầu, Ngài vẫn sẵn sàng vâng phục
thánh ý Chúa Cha. Lúc phải
đau khổ tới tột cùng, Ngài luôn
nhớ tới mục đích mình theo đuổi.
Ngài đã bình tĩnh trước phong ba bão táp,
Ngài đã tha thứ cho
kẻ thù trong cơn hấp hối.
Tóm lại, đời
sống tình cảm của Ngài hoàn toàn
khác xa chúng
ta. Ngài luôn làm chủ được
tình cảm của mình trong mọi hoàn cảnh. Những tình cảm ấy luôn hướng thiện và không bao giờ
quên lãng mục đích. Luôn hòa hợp
vâng phục lý trí và
thúc đẩy cho việc làm.
Chẳng hạn khi Ngài khóc thương trước nấm mồ Lagiarô, thì người Do Thái đã coi đó là dấu chỉ Chúa yêu thương ông cách
riêng. Chúa khóc vì thần
chết đang khống chế loài người. Chúa khóc vì
chính Lagiarô sẽ là dịp cho người Do Thái ghen tức
và vấp phạm. Chúa khóc vì sự
ngoan cố của bọn biệt phái, phủ nhận uy quyền của Thiên Chúa. Chúa khóc
vì lòng tin của chị em Martha chưa được hoàn hảo.
Còn chúng ta, chúng ta đã khóc như
thế nào? Trước một đám tang, có người khóc chỉ vì a dua, khóc
mướn, khóc theo kiểu chặng đàng thứ tám. Khi một kẻ thân yêu chết
đi, nhiều người trong họ hàng cũng
đã khóc. Cái khóc ấy
chưa hẳn đã là vì thương
người nằm xuống, mà có khi chỉ vì thương chính bản thân mình, là kẻ
còn lại phải đơn côi, phải bơ vơ không ai nương tựa. Ay là chưa nói đến những hoàn cảnh mượn tiếng khóc để chửi xéo lẫn nhau,
nhất là đối
với các bà các cô.
Thực vậy, người
ta thường bảo
nước mắt các bà các
cô có thể
là một đập
nước, nhưng
cũng có thể là một trận lụt. Và tệ hơn
nữa, nhiều người đã đổ ra những giọt nước mắt cá sấu,
tức là những giọt nước mắt giả dối và lừa
đảo, có thể ăn sống nuốt tươi kẻ khác.
Trong đời này, người ta thường
khóc khi vui cũng như lúc buồn. Ay là chưa nói đến
những kẻ khóc trong lúc
say xỉn, khóc không có
lý do. Tuy nhiên, lại có những kẻ chẳng khóc bao giờ,
bởi vì lương tâm họ đã chai lỳ, đã băng giá, không còn nhạy
cảm trước những nỗi đau thương. Họ không khóc đã đành
mà tệ hơn nữa còn làm cho
người khác phải khóc vì họ.
Tóm lại, khóc là một nhu cầu,
chúng ta khóc phần lớn là do kết quả của một nỗi khổ tâm hay một
niềm đau đớn nào đó.
Thế nhưng, điều
quan trọng đó là hãy biết khóc cho cuộc đời tội lỗi của mình. Chính cuộc
đời tội lỗi này đã
làm cho Chúa
phải khóc và làm cho
Giáo Hội đau buồn. Đó là những giọt nước lệ làm mờ
nhạt đôi mắt nhưng lại làm sáng
tâm hồn. Và hơn thế
nữa, trong Mùa Chay, hãy
biết khóc lóc ăn năn
tội lỗi để được
thứ tha.
|