Chứng
nhân của tin
mừng sống lại
(Suy niệm của Lm. Giuse Trương
Đình Hiền)
1. Tin vào sự sống:
Trước huyền nhiệm sự
chết, con người thường bị ném vào một
hụt hẫng, vỡ vụn:
Để rồi không biết bao nhiêu câu
hỏi đã đặt ra: Tại sao như thế? Con
người là "Nhân ư linh vạn vật" kia mà? Và
làm sao Thiên Chúa tốt lành, quyền năng lại
để xảy ra như thế? Như những câu
thơ oán thán "Trời già" của một
người cha mất đứa con yêu:
"Ái ăn
đâu, Ái ở đâu?
Để
thương để nhớ để u sầu.
Trời già
độc địa làm chi bấy?
Nỡ bắt con
tôi bảy tuổi đầu !
Phải chăng đó cũng chính là dụng
ý của câu nói mà hai chị em Matta và Maria ở Bê-ta-ni-a
đã trách móc Chúa Giêsu khi đối diện với cái
chết của người em trai yêu dấu: "Phải
chi có Thầy ở đây thì em con không chết !".
Phần chúng ta, vấn nạn "nhân sinh
quan" nầy gần như đã được giải
đáp ngay từ những trang đầu của Kinh Thánh.
A-đam-E-Va, sau khi khước từ Lời Thiên Chúa
"Ngày nào các ngươi ăn trái cây nầy, các
ngươi sẽ phải chết" (St 2,17), nghe lời
ma quỷ xúi dục, đã đưa tay "hái trái
cấm"...và thế là "sự chết đã lan tràn
tới mọi người" (Rm 5,12): Ca-in giết A-ben,
lụt đại hồng thủy, bảo lửa hủy
diệt Sodoma và Gomora...Và cho tới mãi hôm nay, hình như
thế giới cứ lần mò tiến đi giữa
một "nền văn minh sự chết": khủng
bố, chiến tranh, hận thù sắc tộc, tôn giáo,
Si-đa, ma túy, phá thai, dịch bệnh...
Thế nhưng, đó lại không phải là
ý càng không là chương trình của Thiên Chúa. Thiên Chúa không
bao giờ là "Chúa của kẻ chết" mà là
"Chúa của người sống".
Cho nên, từ hơn năm trăm năm
trước khi Chúa Cứu Thế giáng sinh, chính trong cái
"vũng lầy nhầy nhụa" đầy
những đống xương khô của bóng tối và
sự chết, của đọa đầy và thất
vọng, của đắng cay ưu phiền trong kiếp
nô lệ của thời lưu đầy Babylon (587
B.C)...dân Ít-ra-en đã nghe vang lên lời của Thiên Chúa
như "tiếng kèn hy vọng" qua miệng của
ngôn sứ Ê-giê-ki-en: "Nầy hỡi dân ta, Ta sẽ
mở cửa huyệt cho các ngươi. Ta sẽ đem
các ngươi lên khỏi huyệt...Ta sẽ đặt
Thần Khí của Ta vào trong các ngươi và các
ngươi sẽ được hồi sinh..." (BĐ
1).
Nếu thân phận lưu đày của
ít-ra-en là ảnh hình của một nhân loại đọa
đầy tội lỗi, thì "tin vui hy vọng"
của Ê-giê-ki-en kia cũng chính là tín thư riêng tặng cho
mỗi người chúng ta mà nội dung xuyên suốt chính
là: niềm hy vọng chứa chan vào lòng trung tín của Thiên
Chúa vượt trên khổ đau và chết chóc và tình yêu
cứu độ của Thiên Chúa mãi mãi là sức mạnh
hồi sinh, là quyền uy giải thoát. Chân lý nầy nếu
được diễn tả bằng ngôn ngữ của
đời thường cuộc sống hôm nay thì sẽ
được hiểu rằng: chúng ta không được
quyền thất vọng cho dù phải đối diện
với bao thảm cảnh cuộc đời, cả cái
chết. Bởi vì Thiên Chúa đang có mặt trên mọi
nẽo đường và biến cố để thổi
vào Thần Khí tác sinh, để gieo vào hạt mầm
của sự sống và hồng ân cứu độ.
Niềm tin đó không là chuyện hoang tưởng của
những đầu óc mê lầm,lú lẩn, nhưng là
một chân lý rõ như ban ngày đúng như nhận xét thâm
thúy của Gilbert K. Chesterton: "Nếu những hạt
giống trong lòng đất đen mà còn có thể biến
thành những cánh hoa hồng xinh đẹp như thế,
thì trái tim con người còn thể biến thành thế nào
nữa trong cuộc hành trình hướng đến các vì
sao".
Và có một điều kỳ lạ là Thiên
Chúa không bao giờ chỉ nói suông mà "Lời luôn đi
kèm hành động". Biến cố "cải tử
hoàn sinh" cho người bạn La-gia-rô chết thúi 4 ngày
trong huyệt mộ là một minh họa rõ nét cho chân lý
nầy. Thật vậy, chính ngay "quê hương của
tử thần", ngay cánh cửa dẫn vào huyệt
mộ, một tiếng nói quyền năng đã âm vang
thấu tận âm phủ, mở toang cánh cửa âm ty:
"Hỡi La-da-rô hãy bước ra", "Ta là sự
sống lại và là sự sống" (TM).
Như vậy bài học đầu tiên
của Lời Chúa hôm nay mà chúng ta phải thuộc, tin
mừng tiên khởi mà hôm nay chúng ta phải sống chính
là:Tin vào sự sống.
Tin vào một Thiên Chúa tình yêu ban sự
sống, tin vào một Đấng Kitô Phục sinh dẫn ta
vào cuộc sống vĩnh hằng, tin vào Chúa Thánh Linh
đang thổi vào hồn ta nguồn sống mới, thì
liệu có mang lại chuyển biến nào cho chính ta và cho
thế giới hay chăng? Thưa có đấy. Bởi vì
chỉ với niềm tin như thế ta mới thấy
thế giới đẹp vô cùng, ta mới thấy cuộc
sống mới đáng sống làm sao, mới thấy
mỗi một con người, mỗi một sinh linh là
một công trình kỳ diệu, mới thấy mỗi
một cuộc đời, cho dù què cụt điếc câm,
cho dù thấp cổ bé miệng, cho dù dốt nát bần
hàn...vẫn là một "kỳ công vĩ đại
của Thượng Đế" luôn cần được
kính trọng, luôn phải được sẻ chia, yêu
thương và phục vụ. Bởi vì tất cả
đều là sự sống tốt lành phát xuất từ
nguồn sống vĩnh cửu và sẽ được
thăng hoa, qui hướng về cội nguồn vĩnh
cửu rạng ngời vinh quang đó.
Vâng, chỉ với niềm tin đó thì chúng
ta mới trụ vững giữa trăm chiều thử
thách, mới đủ can đảm mĩm cười
với số phận cho dù số phận có khắc
nghiệt oái ăm, mới đủ quảng đại và
khoan dung để yêu thương và tha thứ, cho dù bị
bách hại đọa đầy. Và nhất là, chỉ
với niềm tin đó, chúng ta mới bình thản sống
cuộc sống hôm nay như một cuộc lên
đường, một cuộc vượt qua, một
cuộc tái sinh để bước vào quê hương
vĩnh cửu. Niềm tin đó sẽ củng cố
niềm hy vọng vĩnh hằng trong ta và giúp ta mạnh
mẽ góp phần xây dựng nền "văn minh sự
sống", "văn minh tình yêu", cho ta con tim rộng
mở để đón nhận và yêu thương con
người, cho ta nghị lực và hy vọng để
chiến thắng và đẩy lùi sự dữ trong ta và
quanh ta.
Cách riêng đối với những anh
chị em dự tòng sắp sửa lãnh nhận các bí tích gia
nhập kitô giáo, niềm tin vào sự sống lại sẽ
là một cảm nghiệm mới mẻ tinh khôi của
những con người vừa kết thúc một chặng
đường "vượt qua" đầy nhiêu khê
và thử thách để hân hoan tiến vào "miền
đất của tái sinh", hội nhập vào một
cuộc sống mới mẻ của một đoàn dân
được cứu chuộc.
Tin vào sự sống, còn có nghĩa là tin vào
một Thiên Chúa đã nhập thể trong chính nổi
đau và cái chết:
2. Thiên Chúa đã nhập thể trong chính nổi
đau và cái chết:
Quả thật, khi vào đời, Con Thiên Chúa
nào tránh né cái kiếp phận long đong của con
người. Hãy xem: những giọt nước mắt
đã lăn dài trên má của Chúa Giêsu khi chứng kiến
cái chết của người bạn thân La-da-rô ở
Bê-ta-ni-a; và chắc chắn sẽ không thiếu những
"nụ cười" chia sẻ niềm vui với
đôi tân hôn tại tiệc cưới Cana khi giúp họ có
thêm mấy trăm lít rượu ngon để niềm vui
trọn vẹn và được mãi nối dài. Nếu không
có "trái tim trắc ẩn" của Ngài dừng lại
trên quan tài của người thanh niêm xấu số
bạt phần thì làm sao có nổi vui đong đầy
trong cõi lòng của người mẹ mất con, góa phụ
Naim? Nếu không có đôi tay sẻ chia và phục vụ
giơ lên để chúc lành thì làm sao mấy ngàn
người đói meo giữa hoang mạc có
được bánh cá thơm ngon đã đời chắc
ruột? Phải chăng, vì chính Ngài đã không chê những
giọt nước mắt nóng hổi tình yêu sám hối
của M.Mađalêna để lại trên chân mà đã
khiến cho Matthêô sẵn sàng bỏ lại tất cả
để theo Ngài lang thang rao giảng tình yêu? Phải
chăng vì Ngài đã không kết án người phụ
nữ ngoại tình mà Gia-Kê trưởng ty thu thuế giàu
sụ sẵn sàng leo lên cành sung để được
ngắm nhìn Ngài cho sướng mắt để sau đó
sẵn sàng trở nên kẻ nghèo để sẻ chia và
sống công chính. Phải chăng vì Ngài đã mở mắt
cho người mù từ lúc mới sinh mà đôi mắt tâm
hồn của tên trộm bị đóng đinh bên hữu
đã chợt mở ra để nhìn thấy trong cái thân xác
bê bết máu kia là chìa khóa của quyền uy đang mở
cửa vào Vương quốc vĩnh hằng?
Sống đức tin hôm nay đó chính là ý
thức mãnh liệt rằng: Đức Kitô phục sinh
đang hiện diện trong mọi ngỏ ngách và biến
cố cuộc sống, nhất là, Ngài có mặt ngay trong
những phút giây và cảnh ngộ bi đát nhất như
cảnh ngộ của gia đình Bêtania trong biến cố
La-gia-rô qua đời.
Thê thảm nhất, khổ sầu nhất,
thất vọng nhất, là khi con người chối
từ và phản bội Thiên Chúa để không bao giờ
thấy được ánh sao hy vọng ở cuối
trời, không nhận ra ánh mắt yêu thương và tha
thứ đang dõi nhìn theo...mà chỉ một mình loay hoay
bước đi trong cõi nhân sinh buồn thảm. Trong hoàn
cảnh đó, trong thái độ đó, quả thật
cuộc sống đã trở thành cõi chết, hương
vị ngọt ngào của cuộc sống đã trở nên
ngải đắng, ánh sáng ấm nồng mùa xuân trở
thành đêm đông băng giá...Và như thế, một liều
thuốc độc, một phát súng, một dây thòng lọng
đã trở nên "phương tiện gần gũi
dẫn lối đưa đường vào cõi chết
tuyệt vọng" ! Chúng ta đừng quên câu chuyện
"Ngày Thứ Năm Tuần Thánh": khi Giu-đa
phản bội Thầy, bỏ bàn tiệc ra đi, thì
"bóng tối dâng lên"...và "bóng tối quái ác"
đó đã phủ ngập trái tim Giu-đa cho đến
khi y đưa đầu vào chiêc giây thòng lọng
để chọn cái chết buồn tênh tăm tối.
Trong khi đó, chiều Thứ Sáu hôm sau trên đồi Can-vê
nắng úa, một kẻ trộm bị đóng đinh
đang hấp hối, đã nhìn ra trong cái chết
đớn đau oan nghiệt của con người
tử tội Giêsu Na-da-rét một ánh sáng chứa chan
niềm hy vọng: "Khi Thầy vào Nước của
Thầy xin nhớ đến tôi". Và lập tức anh
ta được đáp ứng: "Hôm nay anh sẽ ở
trên thiên đàng với tôi". Như thế đó, Thiên
Chúa qua Đức Giêsu Kitô đã nhập thể trong chính
nổi đau và cái chết để dẫn đưa
những ai tin vào Ngài tiến vào cuộc sống đích
thực, như hôm nay Ngài xác quyết: "Ai sống mà tin
vào Ta sẽ không chết bao giờ".
Phải chăng đây cũng chính là kim
chỉ nam cho đời thường cuộc sống và là
sự chuẩn bị cuối cùng của Mùa Chay Thánh,
chuẩn bị bằng sự can đảm "chết
đi cho cái tôi đáng ghét" của mình, can đảm
quay lưng chối từ cái quá khứ của cuộc
đời nô lệ tội lỗi, can đảm thoát ra
khỏi vũng lầy của yếu đuối, đam mê
và dục vọng...để đĩnh đạt cùng
với Đức Kitô bước vào niềm hy vọng
phục sinh, cuộc sống mới trong hoan vui ân sủng.
Tin vào sự sống, tin vào Đấng đã
nhập thể trong nổi đau và cái chết để
phục hồi tất cả trong vinh quang phục sinh
sẽ không là một công thức suông được
lặp đi lặp lại như "điệp khúc
của mùa Chay", mà phải hiện thực ngay trong thánh
lễ nầy, khi chút nữa đây, Thịt Máu Ngài sẽ
trở nên lương thực trường sinh để
biến cuộc đời ta, thân xác ta ngập tràn
"Thần Khí. Điều quan trọng giờ nầy là
ta hãy mạnh dạn trả lời câu hỏi của Đức
Kitô: "Con có tin như thế không?" không phải
bằng cách lặp lại thuộc lòng lời của cô
Matta: "Thưa Thầy, có. Con vẫn tin Thầy là
Đức Kitô, Con Thiên Chúa, Đấng phải đến
thế gian", nhưng là bằng tất cả con tim và
cuộc sống: con tim sẵn sàng yêu đến cùng cho dù
phải thí mạng vì bạn hữu và cuộc sống
sống hết mình cho vinh quang Thiên Chúa và cứu rỗi anh
em cho dù phải kinh qua nẻo đường hẹp
thập giá.
Để yêu và để sống như
thế, dĩ nhiên, sẽ là chuyện bất khả khi
với thân phận con người, nhưng lại là
chuyện có thể khi chúng ta biết sẵn sàng để
cho "Thần Khí chi phối". Đó chính là kinh
nghiệm của Thánh Phaolô, một con người đã
được Thần Khí đổi mới toàn diện
từ một tay "sát thủ" tận lực tiêu
diệt kitô giáo đã trở nên chứng nhân của Tin
Mừng sống lại.
Nguyện xin
Thần khí của Đức Kitô hôm nay cũng biến
đổi tất cả chúng ta nên những con người
mới, nên những chứng nhân của Tin Mừng Sống
lại. Amen.
|