CHÚA GIÊSU LÀM CHO ANH
LAGIARÔ SỐNG LẠI
Dấu lạ thứ
bảy theo Tin Mừng Gioan là dấu lạ vĩ
đại nhất, đến nỗi có vài nhà chú giải
xem dấu lạ này như là sự biểu hiệu
trước cuộc Thương Khó và sự Phục Sinh
của Chúa Giêsu hơn là đoạn kết phần thứ
nhất của Tin Mừng.
Luôn luôn như thế
trong Tin Mừng Gioan, đây là một bài trần thuật
tập trung vào Chúa Giêsu. Cả bài đều
được sắp đặt chung quanh Chúa Giêsu; chính
trong tương quan với Người mà mọi nhân
vật được mời gọi thực hiện
việc lựa chọn. Cảnh tượng xảy ra
ở hai nơi. Ở bên kia sông Giođan (10,40-11,16) nơi
Chúa Giêsu ở ẩn cùng các môn đệ và tại Bêtania
(11,16-45) nơi ở của Lagiarô và hai chị. Theo Ga 1,28
thành phố bên kia sông Giođan cũng gọi là Bêtania. Như
vậy, có hai “Bêtania”, ngăn cách bởi dòng sông Giođan,
nơi này cách xa nơi kia trước tiên không phải
về địa lý: có một Bêtania tĩnh lặng,
đầy sức sống và lòng tin và một Bêtania náo
loạn, đầy chết chóc. Bêtania, gần Giêrusalem, là
nơi cư ngụ của Lagiarô, Matta và Maria,
được giới thiệu ở đây như ba
chị em. Lagiarô –có nghĩa là “Éléazar” (Thiên Chúa đoái
thương) theo dạng thức Hy Bá- không được
nhắc đến ở nơi nào khác. Cũng danh xưng
này còn gặp thấy trong dụ ngôn về anh Lagiarô và ông
nhà giàu (Lc 16) trong một tình huống không liên quan gì
đến đoạn sách của chúng ta. Maria và Matta
cũng không xuất hiện nào khác ngoài Lc 10,38-42.
Phần Dẫn: 1-6
Bài trần thuật
mở đề như một truyện ngắn: “Có
một người đau nặng”. Lagiarô được
đề cập đến trong tương quan với hai
cô chị Maria và Matta. Chị Maria được đánh giá
dựa vào việc xức dầu thơm cho Chúa Giêsu. Bởi
vì cô chị này được đặt quan hệ với
“ngày mai táng” của Chúa Giêsu, ta có thể hiểu
điểm giải thích này như cách hướng dẫn
để suy ngắm: Maria được đặt
liền bên cạnh sự tang tóc và sự chết.
Ở điểm này, hai
chị em đều không khác nhau. Cô này cũng như cô kia
đều được Chúa Giêsu thương mến,
cả hai cô đều cho người đến báo cho Chúa
Giêsu hay Lagiarô đau nặng. Có hai ghi chú khiến bài
trần thuật trở nên bi thảm: Chúa Giêsu thương
mến, thế nhưng Người còn lưu lại thêm
hai ngày nữa! Điều trái nghịch này có thể là quan
trọng. Nó còn lặp lại trong 11,36-37 dưới
dạng thức lời xác quyết của người Do
Thái: Kìa xem ông ta thương anh Lagiarô biết mấy!... Ông
ta lại không thể làm cho anh ấy khỏi chết ư!
Phần dẫn nhập
này tạo cho Chúa Giêsu một tư thế duy nhất
bởi lẽ người báo trước biến cố
này như một căn bệnh không phải đưa
đến sự chết mà là tỏ hiện vinh quang
của Thiên Chúa và của Chúa Con.
Chúa Giêsu Và Các Môn Đệ: 7-16
Cuộc đối
thoại giữa Chúa Giêsu với các môn đệ tạo nên
một sự toàn nhất. Hơn nữa sự thống
nhất của bài trần thuật được đánh
dấu bằng sự bao hàm:
Người nói với các môn
đệ (c.7)
Nào chúng ta cùng trở lại
miền Giuđê
người Do Thái tìm cách ném đá Thầy (c.8)
nào chúng
ta đến với anh ấy (c. 15)
Tôma nói với các bạn
đồng môn (c.16)
chúng ta cùng đi và cùng chết với Thầy.
Trong phần này, các môn
đệ hành xử như thế theo hai thái độ. Trước
tiên, các ông là đối tượng để Thầy
dạy bảo. Quả thực, đứng trước cái
chết của anh Lagiarô và những lời Chúa Giêsu nói, các
ông tỏ ra không hiểu gì hết và cần lời
giảng dạy của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu chứng tỏ
mình thông hiểu và mời gọi các môn đệ cùng chia
sẻ: đối với Chúa Giêsu, cái chết của anh
Lagiarô là một giấc ngủ: điều đó khiến
hiểu rằng Người có thể “đánh thức”
nếu anh ta nghe tiếng của Chúa Giêsu. Sau nữa, các ông
đi theo Người và sau khi phản đối, cuối
cùng các ông cùng tham gia vào chương trình của
Người: “Nào chúng ta cùng đi và cùng chết với
Thầy”. Thực tế, các ông chứng tỏ thế nào là
môn đệ: lắng nghe Thầy và tiếp bước
theo Thầy cho đến chết (các Tin Mừng Nhất
Lãm sẽ đề cập đến “vác lấy thập
giá của mình”).
Người kể
chuyện khéo léo đưa vào một tựa đề thích
hợp cho mỗi độc giả (mỗi người
phải là môn đệ) và một sự quy chiếu vào
biến cố đặc biệt bằng cách nêu tên ông Tôma
và nhờ vậy tạo nên một căn cứ lịch
sử cho bài trần thuật. Như vậy bài trần
thuật vừa có tính lịch sử vừa có tính
tượng trưng.
Chúa Giêsu Và Cô Matta: 17-27
Bài trần thuật
chuyển ngay sang bên kia sông Giođan nơi diễn biến
cuộc đối thoại với các môn đệ,
tại Bêtania gần Giêrusalem. Tác giả tự do tóm tắt
trì hoãn để đạt đến các mục tiêu
của mình. Kể từ câu 20, tác giả dùng bài trần
thuật ngay tại cổng làng Bêtania để khai
triển hai cảnh song song trong đó mỗi chị em
đều có một vai trò khác biệt nhau.
Cô Matta bỏ đám
đông đang buồn thảm gồm cô Maria và nhiều
người Do Thái để đi đón Chúa Giêsu. Việc
đi đón này đặt cô Matta vào trong mối liên hệ
đặc biệt tin tưởng khi đối diện
với Chúa Giêsu. Có Chúa Giêsu hiện diện, sự chết
không thể lấn lướt được
Người. Niềm xác tín này của cô Matta
được diễn đạt bằng ba dụng
ngữ.
Trước nhất cô
xác tin rằng Chúa Giêsu có quyền trên sự chết. Sự
hiện diện của Chúa Giêsu là cơ hội để
cô tuyên xưng đức tin của mình vào Chúa Giêsu: “Con
biết bất cứ điều gì Thầy xin cùng Thiên
Chúa, Người cũng sẽ ban cho Thầy”. Lời
quả quyết giống như một lời cầu xin
(như trong 2,3). Về điểm này, cô nhận biết
Chúa Giêsu là người của Thiên Chúa, theo cung cách của
Êlia và Êlisê, những vị mà Thiên Chúa ban cho quyền làm cho
kẻ chết sống lại (1V 17,17-24; 2V 4,18-37). Thế
nhưng đối với một tín hữu Do Thái, rõ ràng
chỉ có Thiên Chúa mới có thể ban sự sống,
như lời của một kinh sư Do Thái minh chứng:
“Ôi lạy Chúa, Chúa nắm trong tay ba bí quyết: quyền
năng làm mưa gió, làm thụ thai trong lòng người
nữ và làm cho kẻ chết sống lại”.
Khi Chúa Giêsu ẩn mình
đi để nhắc cho Matta niềm tin của
người Do Thái vào việc làm cho kẻ chết sống
lại (Ga 11,23), cô liền tiếp theo Người
để tin vào tín điều của dân Israel: “Con biết
em con sẽ sống lại trong ngày sau hết”.
Nhất là khi Chúa Giêsu
tỏ hiện như là sự sống lại và là sự
sống, cô Matta liền vượt qua sự hiểu
biết để tin: “Thưa Thầy, con vẫn tin
Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa” (11,27). Ở đây cô
là dung mạo của người nữ tín hữu nhận
biết nơi Chúa Giêsu sự xâm nhập của Thiên Chúa
kẻ sống vào giữa loài người. Ở đây Chúa
Giêsu trổi vượt các ngôn sứ Êlia và Êlisê:
Người được nhận biết như
Đấng ban sự sống, theo mẫu hình của Thiên
Chúa. Quả vậy, nhờ đức tin cô Matta đã
hiểu rằng nơi Chúa Giêsu, chính Thiên Chúa ngự
đến giữa loài người. Thật hoàn toàn hợp
lý để cô Matta tuyên xưng Chúa Giêsu trong căn tính
đích thực của mình, Đấng Mêsia của Thiên Chúa
(cùng đích của Do Thái giáo) và Con Thiên Chúa. Như thế,
cô tổng hợp Do Thái giáo (Đấng Mêsia) và sự
mới lạ của Kitô giáo (Con Thiên Chúa).
Tiểu đoạn này
đã đạt đến đích điểm khiến cho
việc anh Lazarô ra khỏi mồ sau này trở nên
tương đối, bởi vì vận may đặc
biệt của anh đã trở nên thứ yếu: “Ở
đây điều hệ trọng là “ai sống và tin vào Chúa
Giêsu” (11,25).
Chúa Giêsu Và Cô Maria: 28-37
Người kể
chuyện muốn nhấn mạnh đến sự
tương đồng giữa hai chị em: họ gặp
Chúa Giêsu tại cùng một địa điểm và thưa
với Chúa Giêsu những lời như nhau. Thế nhưng
lời đầu tiên của cô Maria chỉ lặp lại
phần tiêu cực của điều cô em đã nói
–“Thưa Thầy, nếu có Thầy ở đây”- còn
thiếu phần tuyên xưng đức tin. Trong hành
động và trong lời nói, cô Maria vẫn còn chìm
đắm trong tang chế: cô đang ở với
người Do Thái đến chia buồn (cc. 31.33). Cô
đang khóc lóc thảm thiết.
Có một niềm tin quá
mức nơi cô Matta và một sự buồn thảm
nơi cô Maria, ta có thể nói như vậy chăng? Các
bản văn đều phóng khoáng và cô Matta người
phụ nữ đầy lòng tin lại xuất hiện
ở câu 11,39 với những dấu hiệu của sự
thiếu tin tưởng. Thế nhưng, theo cách thức
của nhà mô phạm, Gioan đã đánh dấu hai thái
độ trước sự chết; cô Maria,
được đề cập đến ngay từ phần
đầu của bài trần thuật với vẻ tang tóc
và chết chóc (c.2), tiêu biểu cho con người thất
vọng vì sự từ biệt: sự buồn thảm thái
quá khiến cô không thể đón nhận nơi Chúa Giêsu
Đấng mặc khải của Thiên Chúa.
Chúa Giêsu Đứng Trước Anh Lagiarô: 38-45
Cuộc hội ngộ
với anh Lagiarô được đặt liền sau
đoạn đau thương khóc lóc và phiền muộn. Chúa
Giêsu lặp lại địa vị Chúa Tể của mình
và tỏ bày bằng ba cách:
a.
Bằng
lời nguyện xin cùng Chúa Cha qua đó biểu hiện
sự kết hợp giữa Người với Chúa Cha và
niềm xác tín được lắng nghe: “Con biết Cha hằng
nhậm lời con”.
b. Bằng quyền năng của
Người nơi các nhân chứng. Người ra lệnh
hai lần: “Đem phiến đá này đi”. Cô Matta còn do
dự được hướng dẫn đến vinh
quan của Thiên Chúa như Chúa Giêsu đã loan báo cho các môn
đệ (11,4). “Cởi khăn và vải cho anh ấy,
rồi để anh ấy đi”. Như thế đó, Chúa
Giêsu không những giải thoát anh Lagiarô khỏi xiềng
xích sự chết, mà còn không ràng buộc con người
vừa mới được cứu thoát phải lệ
thuộc vào mình. Người gởi trả anh Lagiarô về
với sự sống.
c. Bằng
sự can thiệp ngắn gọn nhưng hiện hữu
của Người: “Người kêu lớn tiếng: “Anh
Lagiarô, hãy ra khỏi mồ!”. Tiếng kêu
này có tác dụng tạo được cho dấu lạ
tính cách công khai không? Tiếng kêu có nêu lên được ý
nghĩa tiếng nói của Người có thể vang đến
xứ sở kẻ chết chăng? Cả hai ý nghĩa
đều có thể, cùng với khả năng
hướng đến tiếng kêu thảm thiết
của Con Người vào thời cuối cùng lôi kéo kẻ
chết ra khỏi mồ.
Anh Lagiarô
Khác hẳn với các nhân vật khác, nhân
vật Lagiarô khá dài dòng: anh xuất hiện xuyên suốt bài
trần thuật: anh là nguyên nhân làm phát sinh câu chuyện; anh
là một câu chuyện của mỗi người và tạo
cho tất cả các nhân vật khác khả năng làm cho
sự chết một ý nghĩa. Anh xuất
hiện với dáng vẻ thụ động, im lặng,
một sự im lặng phong phú khiến cho mỗi nhân
vật của bài trần thuật, và qua đó mỗi
độc giả, đều có thể lên tiếng. Anh là người mặc khải cho mỗi
người.
Thoạt đầu, không có một yêu cầu
nào đặc biệt: chính hai cô chị cho người
đến nói với Chúa Giêsu: Thưa Thầy, người
Thầy thương mến đang bị đau nặng.
Sống lại ra khỏi mồ, anh Lagiarô tiếp tục
im lặng và rút lui theo lời nói bí
ẩn của Chúa Giêsu: “Cởi khăn và vải cho anh
ấy, rồi để anh ấy đi”. Người
kể chuyện quan tâm đến “phần để
trắng” trong tiến trình của anh Lagiarô: bốn ngày anh
ở trong mồ có ý nghĩa gì? Sau khi sống
lại ra khỏi mồ, anh làm gì? Bài
trần thuật đạt đến tột đỉnh
cùng với việc tuyên xưng đức tin của cô
Matta. Anh Lagiarô đã được
“đánh thức” bởi vì anh đã nghe lời của Chúa
Giêsu. Đấy là chỗ duy nhất trong bài trần
thuật: “Anh Lagiarô, hãy ra khỏi mồ!”.
Tuy nhiên, về cuộc hành trình cá nhân của anh Lagiarô, không
có một dấu vết nào được thuật lại
cho chúng ta ngoài sự kiện anh Lagiarô một trong những
người đồng bàn cùng với Chúa Giêsu trong 12,2: Orgiène đã nói: “Anh Lagiarô đã trải qua
một quãng đường dài, bởi vì anh đã đi từ
ngôi mộ đến bàn tiệc của Chúa”. Anh biến
khỏi bài trần thuật khi mà thánh sử thông báo
rằng các vị thượng tế quyết định
giết cả anh Lagiarô nữa (12,11):
lời nói có hiệu quả đáng kinh ngạc. Chúng ta sẽ không còn biết gì về anh nữa,
ngoài những tục truyền. Thánh sử đã
đề cập khá đầy đủ về anh: từ
nay cần phải nhường chỗ lại cho Chúa Giêsu,
Người mà anh có nhiệm vụ chuẩn bị sự
chết và sự vinh quang.
Chúa Giêsu
Được Tỏ Hiện
Trọn bài trần
thuật đều tập trung vào Chúa Giêsu. Trong mỗi phân
đoạn, Người đều là biểu tượng
chính yếu và lần lượt tỏ lộ một khía
cạnh nhỏ về căn tính của Người,
như được chứng mình khi ta nhìn thoáng qua các phần
khác nhau của bài trần thuật.
|