Hai cách nhìn và hai lối
sống
(Suy niệm của Jos.Vinc. Ngọc Biển)
Ở đời, khi nói về nỗi khổ
thể lý của người bị mù lòa, người ta
vẫn thường nói: “giàu hai con mắt, khó hai bàn tay”; còn
đối với các nhà thi sĩ thì con mắt là một cái
gì đó rất thơ mộng! Nó luôn gợi hứng cho
những ai yêu mến thơ văn có thể nảy sinh sáng
tác... vì thế, có câu: “Mắt em là một dòng sông, thuyền
ta bơi lặng trong dòng mắt em” (Lưu trọng Lư);
hay đối với những nhà nhân tướng học
thì: “Con mắt là phản ảnh của tâm hồn”. Nên nhìn
con mắt, người ta có thể đoán bắt
được tính tình; hoặc với các nhà khoa học
thì: “Con mắt được coi như một chiếc máy
chụp rất nhỏ nhưng rất tinh vi và phức
tạp, chưa có một máy kỹ thuật số nào sánh
kịp[...]. Con mắt thâu 80% số vốn kiến thức
mà con người hấp thụ được...”
Vì thế, con mắt được gọi
là “cửa sổ của linh hồn”. Tuy nhiên, trong
đời sống đức tin, cái mù lòa về mặt
thể lý không đáng sợ cho bằng cái mù tâm linh.
Hôm nay, bài Tin Mừng cho chúng ta thấy
Đức Giêsu đã làm phép lạ chữa người mù
từ lúc mới sinh. Nhưng điều đặc
biệt là nhờ con mắt đức tin của anh mù sáng,
nên con mắt thể lý cũng nhờ đó mà
được trông thấy. Trong cuộc sống thực
tế, hình ảnh của anh mù đối lập với
nhiều người. Tại sao vậy? Thưa, bởi vì
có rất nhiều người hiện nay sáng mắt
về thể lý, nhưng lại mù lòa về tâm hồn.
Qua câu chuyện Đức Giêsu chữa
người mù từ lúc mới sinh, đã nảy sinh hai
cách nhìn, hai lối hiểu khác nhau giữa Thiên Chúa, mà
cụ thể là nơi Đức Giêsu và những
người sống cùng thời với Ngài.
1. Hai cách nhìn và hai lối sống
Điều trước tiên, chúng ta cần
nhận thấy là Thiên Chúa nhìn con người, sự
vật hoàn toàn khác lối suy hiểu của con
người. Nếu con người nhìn bề ngoài, thì Thiên
Chúa nhìn thấu tận tâm can. Chuyện người phụ
nữ bên bờ giếng Giacóp tuần trước là
một chứng minh cụ thể, khi Đức Giêsu
biết người phụ nữ này có quá nhiều
đời chồng, mặc dù chị ta không nói (x. Ga 4,5-42).
Nếu các Pharisêu và phần đông người Do thái
giữ luật chỉ vì giữ luật mà sẵn sàng
trở nên vô cảm, dửng dưng trước nỗi khổ
của anh em đồng lại, thì Đức Giêsu đã
vượt lên trên luật để giải phóng con
người, hầu đem lại cho con người được
hạnh phúc, tự do đích thực, và dẫn đưa
người ta vào trong đường lối nhân hậu,
bao dung của Thiên Chúa. Vì thế: “Thật vậy, tư tưởng
của Ta không phải là tư tưởng của các
ngươi, và đường lối các ngươi không
phải là đường lối của Ta”(Is 55, 8).
Thật thế, ngay cả tiên tri Samuel, ông
đã được Thiên Chúa yêu thương, chọn và
gọi, rồi ông cũng đã phục vụ Thiên Chúa
rất nhiều năm trong vai trò là người thông ngôn cho
Người, ấy vậy mà ông vẫn còn có thái độ
rất đời, vẫn không có cái nhìn của Thiên Chúa (x.
Sm 16, 1b. 6-7. 10-13a). Rồi đến lượt chính các môn
đệ, khi gặp thấy anh mù, các ông cũng nhao lên
hỏi Đức Giêsu: “Thưa Thầy, ai đã phạm
tội khiến người này sinh ra đã bị mù, anh ta
hay cha mẹ anh ta?" (Ga 9,2). Như vậy, từ Samuel,
đến các môn đệ là những người sống
bên cạnh Chúa, vậy mà vẫn còn đó cái nhìn không có
“chất Chúa” khi nhận xét một thực tại!
Như vậy, đâu lạ gì khi chúng ta
thấy những người Biệt Phái cũng có cái nhìn
rất đời như vậy. Phải chăng có khác nhau
chút ít khi Samuel cũng như các môn đệ là do chưa
hiểu hết được ý định của Thiên
Chúa, nhưng khi đã nhận ra, các ngài đã trung thành theo ý
của Thiên Chúa. Còn những người Biệt Phái thì do
ghen tương, ích kỷ, kiêu ngạo và cố chấp, cho
nên họ khước từ chứng tích của anh mù
về tình thương của Thiên Chúa qua Đức Giêsu,
đồng thời, họ tìm cách loại trừ chính
Đức Giêsu và ngay cả anh mù ra khỏi cộng
đồng, xã hội của họ. Nếu Đức
Giêsu đã không chữa bệnh ngày Sabát, và anh mù kia nếu
không xuất hiện thì đã không có chuyện...
Trước mặt những người
Pharisêu và người Do thái cũng như theo lỗi suy
diễn của họ thì: Thiên Chúa, hay người của
Thiên Chúa phải là Đấng tốt lành, thánh thiện,
trung thành với Lề Luật và không bao giờ có thể
gần gũi với những người tội
lỗi... (x. Ga 9,16). Thật ra, nói như vậy thì không sai,
nhưng chưa đủ, bởi vì nếu tách tình
thương của Thiên Chúa ra khỏi xã hội, cuộc
sống, cụ thể là những nơi, những
người cần được cứu độ thì mâu
thuẫn nội tại với Người, bởi vì:
“Thiên Chúa là tình yêu”.
Tuy nhiên, thái độ của Đức Giêsu
thì khác hẳn. Khi chữa cho anh mù được sáng
đúng ngày cấm kị của người Do thái theo
luật Môsê, Đức Giêsu đã khẳng định
về sứ vụ Thiên Sai của mình, Ngài nói: “Chúng ta
phải làm những việc của Đấng đã sai
Thầy, khi trời còn sáng; đêm đến, không ai có
thể làm việc được. Bao lâu, Thầy còn ở
thế gian, Thầy là ánh sáng thế gian" (Ga 9,4-5). Và,
Ngài cũng ngầm cho mọi người biết rằng
Ngài đến từ Thiên Chúa, nên làm chủ luôn ngày Sabát và
mặc cho nó một ý nghĩa đúng đắn khi nói:
"Ngày sabát được làm ra vì con người, chứ
không phải con người vì ngày sabát. Bởi đó, Con
Người làm chủ luôn cả ngày sabát" (Mc 2,27-28). Vì
thế, nếu đã là phương tiện, thì nó chỉ
đóng vai trò là phục vụ, nên không thể không cứu
người, hoặc làm việc tốt chỉ vì vụ
luật.
2. Sứ điệp Lời Chúa
Sứ điệp Lời Chúa ngày hôm nay
nhắc chúng ta một vài điều:
Trước tiên, nếu chỉ suy nghĩ
đơn giản hay bề ngoài, mỗi người chúng
ta rất dễ có nhận định là tại sao Samuel
đã được Chúa gọi, chọn và được
đặc ân sống thân tình với Thiên Chúa, đại
diện Chúa, mà vẫn không nhận ra thánh ý của
Người?
Thứ đến, chúng ta cũng không
ngần ngại trách các môn đệ khi các ông có nhận
định sai lầm về việc chàng thanh niên bị mù
được đề cập đến trong bài Tin
Mừng hôm nay khi các ông thắc mắc với Đức
Giêsu về việc có phải anh ta bị mù là do tội
của anh hay của cha mẹ anh?
Tiếp theo, chúng ta rất dễ kết án
những người Biệt Phái vì có một quan
điểm nguy hiểm và cho rằng những ai bị
tật là do tội và bị Thiên Chúa trừng phạt!
Đồng thời kết án họ vì cố chấp
bởi vì trong tim và khối óc luôn có sẵn một
định kiến, chống đối và thù ghét cũng
như khinh thường những người thấp
cổ bé họng, ốm đau bệnh tật, và kết án
nữa là vị họ sống hình thức, vụ
luật...;
Cuối cùng, một lối suy nghĩ đáng
thương hại cho những người Do thái thời
bấy giờ, vì họ đã có chính Đức Giêsu là
hiện thân của Thên Chúa ở cùng mà lại không nhận
ra. Nên họ đã bất đồng ý kiến và nảy
sinh mâu thuẫn chỉ vì câu nói: "Một người
tội lỗi sao có thể làm được những
dấu lạ như vậy?" (Ga 19,6). Tuy nhiên, suy cho
cùng, chúng ta phải thương lấy chính chúng ta, bởi
vì vẫn còn đâu đó những nghi kỵ, thành kiến
và gán mặc cho người khác những điều mà
cả cuộc đời của họ không sao ngóc
đầu lên được, chỉ vì một lần trong
đời họ bị lỡ...
3. Sống sứ điệp Lời Chúa
Thật vậy, vì ích kỷ, nghi kỵ và kiêu
ngạo, nên đã không ít lần chúng ta không thể bỏ
qua những sai sót cho anh chị em chúng ta, dẫu vẫn
biết rằng, nhiều khi chính chúng ta tội lỗi
hơn họ, nhưng chỉ vì chúng ta khôn khéo, lèo lái cách
tinh vi mà người đời không biết, nên chúng ta
vẫn “bình chân như vại” mà sẵn sàng lên án
người khác. Vì thế, vẫn còn đó những
chuyện đau lòng như:
Nếu ai đó một thời vướng
vào cái tội gọi là “đầu trộm đuôi
cướp” thì cả đời không thể thoát ra
khỏi những ánh mắt coi thường, khinh khi,
dẫu giờ này con người đó tốt lành, hoàn
lương! Hay một cô gái nào đó chỉ vì trót dại,
và cũng có thể vì hoàn cảnh bị ép buộc phải
làm gái điếm... thì mặc cho cô ta đã hối hận,
quay đầu trở về và hướng thiện, thì
cũng không bao giờ tránh được sự dè bửu,
chê bai và cả đời không bao giờ rửa hết
nỗi nhục bán thân. Hoặc như một bạn
trẻ nào đó, thời thanh niên, vì thiếu sự suy
nghĩ, ham chơi, nên sa ngã vào con đường nghiện
ngập, hút trích... những người này, dưới con
mắt của chúng ta, họ là đồ bỏ, mà ngay
cả những người có lòng giúp đỡ họ
cũng bị khinh thường theo.
v.v.
Chỉ đưa ra chừng ấy thôi thì
cũng đủ cho chúng ta thấy là đã biết bao
lần ta bỏ lỡ cơ hội như Chúa, đã
đánh mất vai trò đồng hành, nâng đỡ và
tỏa gương sáng cho anh chị em chúng ta để dìu
họ bước lên. Không những thế, nhiều khi
chúng ta lại cho rằng nếu tạo điều
kiện thuận lợi cho họ, thì chẳng khác gì
“vẽ đường cho voi chạy”; hay như một
cơ hội để họ lợi dụng lòng tốt,
rồi “ngựa quen đường cũ”, nên đôi lần
chúng ta đã thẳng tay vùi dập, làm cho cuộc
đời của họ bi đát hơn và không thể
ngẩng đầu để tiến về phía
trước với hy vọng thay đổi cuộc
đời. Thực ra, lối suy nghĩ trên có cơ sở
hay nhiều người đã quá kinh nghiệm nên mới có
những nhận định như thế! Tuy nhiên, nếu
chúng ta thinh lặng và hồi tâm đôi chút, thì có lẽ chúng
ta sẽ cảm thấy xấu hổ khi thấy cuộc
đời của mình cũng nhem nhuốc hay còn tệ
hơn như thế nữa. Nhưng điều nguy
hiểm hơn cả, đó là chúng ta đã tước
mất quyền phán xét của Thiên Chúa, và trở thành
một vị thẩm phán mù lòa, ác đức, không giống
Đức Giêsu. Lời của thánh Phaolô khuyên các tín hữu
Rôma đáng để cho chúng ta suy nghĩ: “Hỡi
người, dù bạn là ai đi nữa mà bạn xét
đoán, thì bạn cũng không thể tự bào chữa
được. Vì khi bạn xét đoán người khác, mà
bạn cũng làm như họ, thì bạn tự kết án
chính mình” (Rm 2,1). Đồng thời tự cho mình là
đạo đức, tốt lành, nên không thuộc về
hàng ngũ những tội nhân cần được
đón nhận ơn tha thứ. Thực ra, không ai là
người vô tội trước mặt Chúa cả:
“Nếu chúng ta nói là chúng ta không có tội, chúng ta tự
lừa dối mình, và sự thật không ở trong chúng ta”
(1 Ga 1, 8).
Vì thế, ta sẵn sàng bỏ qua những
thiếu xót của mình, nhưng lại tìm mọi cách bôi
nhọ những thiếu xót của anh em. Những
người như thế, Đức Giêsu đã cảnh
báo: "Này anh, hãy để tôi lấy cái rác trong con mắt
anh ra", trong khi chính mình lại không thấy cái xà trong con
mắt của mình? Hỡi kẻ đạo đức
giả! Lấy cái xà ra khỏi mắt ngươi
trước đã, rồi sẽ thấy rõ, để
lấy cái rác trong con mắt người anh em!” (Lc 6,42).
Đây phải chăng cũng là tình trạng mù tâm linh!
Hình ảnh của Đức Giêsu, vị
mục tử nhân từ, đấng giàu lòng thương
xót không hề có một thái độ như thế. Ngài
sẵn sàng tháp nhập vào dòng người đến xin
Gioan làm phép rửa thống hối, mặc dù Ngài vô tội.
Nhưng thái độ đó của Ngài cho chúng ta thấy
rằng: Con Thiên Chúa sẵn sàng trở nên một con
người khiêm tốn, liên đới để cứu
độ những người tội lỗi. Tinh thần
ấy đã được Ngài sống và giảng dạy:
“...giữa triều thần Thiên Chúa, ai nấy sẽ vui
mừng vì một người tội lỗi ăn năn
sám hối" (Lc 15,10); Và sứ mạng của Ngài là
đến để cứu chữa những người
tội lỗi, ốm đau, bệnh tật, vì
người khỏe mạnh thì không cần đến
thầy thuốc. Như vậy, những người
thấp cổ bé họng, tội lỗi và bị loại
ra bên lề lại là đối tượng số một
của sứ vụ Thiên Sai nơi Đức Giêsu.
Nếu chúng ta là môn đệ của
Đức Giêsu đúng nghĩa, thì chúng ta cũng phải
coi những người anh em đó là đối
tượng trọng yếu của Tin Mừng và sứ
vụ nơi chúng ta.
Thật thế, là môn sinh của Thầy Chí
Thánh, ánh mắt của ta là ánh mắt nhân từ để
cảm thông; đôi chân của ta luôn tiến về phía
người tội lỗi, bất hạnh để cùng
đồng hành với họ và đôi tay biết dang
rộng để nâng dạy những người tội
lỗi, giúp họ đứng lên và cùng ta tiến về
phía trước. Được như thế, hẳn
sẽ không thiếu những vị thánh xuất thân từ
hàng ngũ của người tội lỗi!
Lịch sử Giáo Hội đã chứng minh
điều đó. Trong số rất nhiều vị thánh mà
một thời đã “thượng vàng hạ cám”, chúng ta
xin đưa ra một số nhân vật tiêu biểu đã
được cải hóa nhờ lòng nhân từ của Thiên
Chúa như: Mátthêu, người thu thuế; Phêrô,
người trối Chúa; người phụ nữ
ngoại tình; người phụ nữ bên bờ giếng
Giacóp; Augutinô... và còn biết bao vị thánh lỗi lạc
khác mà trước đó họ là những côn đồ, gái
điếm, trối Chúa, bỏ đạo...! Lời
cầu nguyện của Đức Giêsu trên thập giá
đáng để chúng ta suy ngẫm: “Lạy Cha, xin tha cho
họ...". Thử hỏi rằng trên trần gian này có
tội gì nguy hại và đáng phạt cho bằng tội
giết con Đức Chúa Trời? Nhưng Đức Giêsu
sẵn sàng tha thứ cho cả kẻ giết mình.
Như vậy, Mùa Chay, mỗi người
chúng ta hãy để cho Lời Chúa như ánh mặt trời
chiếu rọi vào tận thâm sâu tâm hồn của mình,
để con mắt đức tin của chúng ta sáng lên
như anh mù khi xưa, hầu tránh đi tình trạng sáng con
mắt thể lý, nhưng lại mù con mắt tâm linh.
Lạy Chúa Giêsu,
xin cho mỗi người chúng con luôn biết yêu
thương, cảm thông và tha thứ cho anh chị em, xin
cho chúng con được nhạy bén với Thánh Ý của
Chúa, để không bị tình trạng sáng mắt thể
lý, nhưng lại mù về đời sống đức
tin, đời sống tâm linh. Amen.
|