Đức
tin người mù
(Suy niệm của Lm. Giacôbê Phạm Văn
Phượng)
Có một
người kia sinh ra đã bị mù, anh
sống trong một gian phòng, bởi vì không nhìn thấy gì
nên anh phủ nhận tất cả những gì những
người chung quanh quả quyết là có: "Tôi không tin,
vì tôi có thấy đâu nào". Một vị lương y
thấy vậy thì thương hại anh, ông đi tìm
một thứ linh dược chữa cho anh
được sáng mắt, anh sung sướng quá, tự
phụ nói: "Giờ đây tôi đã thấy
được tất cả sự thật chung
quanh tôi rồi". Nhưng có người nói với anh:
"Bạn ơi, bạn mới chỉ thấy
được những vật chung quanh
bạn trong căn phòng này thôi. Như thế có là bao, ngoài kia người ta còn thấy được
mặt trời, mặt trăng và các tinh tú hằng hà sa
số, còn biết bao vật khác mà bạn chưa thấy,
bạn đừng tự phụ như vậy". Anh
tỏ vẻ không tin, lại còn nói mạnh hơn: "Làm
gì có được những cái đó, những gì có thể
thấy được, tôi đã thấy tất cả
rồi".
Một vị y
sĩ khác lên tận núi cao, gặp được Sơn
Thần chỉ cho một thứ linh dược khác,
đem về giúp cho anh được cặp mắt sáng
hơn và thấy xa hơn. Bây giờ anh thấy
được mặt trời, mặt trăng và các tinh tú
trên không trung. Mừng quá và lòng tự phụ tự
đắc lại tăng thêm, anh nói với mọi
người: Trước đây tôi không tin, nhưng bây
giờ tôi thấy, tôi tin. Như thế giờ đây không
còn có gì mà tôi chẳng thấy, chẳng biết, đâu còn
ai hơn tôi được nữa".
Thấy anh
tự phụ như vậy, một hiền nhân nói với
anh: "Cậu ơi, cậu vừa hết mù, nhưng
cậu cũng vẫn chưa biết gì cả. Tại sao cậu lại quá tự phụ như
thế? Với chừng mực và giới hạn
của tầm mắt, cậu làm gì biết có những
vật ngoài ngàn dặm mà mắt cậu không làm sao thấy
được. Cậu có thấy được những
nguyên nhân nào đã cấu tạo ra cậu khi cậu còn
nằm trong bào thai của mẹ cậu
chăng? Ngoài cái vũ trụ nhỏ bé mà cậu đang
sống đây, còn không biết bao nhiêu vũ trụ khác vô
cùng to lớn và nhiều không kể hết như cát ở
bãi biển, cậu có thấy không? Tại sao cậu dám
tự phụ bảo rằng:"Tôi thấy cả, tôi
biết cả rồi". Cậu vẫn còn là một anh
mù, cậu vẫn còn lấy tối làm sáng, lấy sáng làm
tối".
Đó là câu chuyện của một anh mù
bẩm sinh ở Ấn Độ. Còn câu chuyện của
anh mù, cũng mù bẩm sinh, kể lại trong bài Tin
Mừng, thì lại khác hẳn: trong khi mù và sau khi
được sáng, anh luôn khiêm nhường, luôn nhìn
nhận thân phận hẩm hui buồn
tủi của mình. Ngược lại, những
người sáng mắt thì lại mù tối, kiêu ngạo
trong sự mù tối của mình, đó là những
người Pha-ri-sêu. Chúng ta thấy sự
khác biệt tàn nhẫn giữa đôi mắt của
người mù và đôi mắt của những người
Pha-ri-sêu. Đôi mắt thân xác của người mù
nhưng mắt tâm hồn anh lại sáng. Những
người Pha-ri-sêu có đôi mắt thân xác không mù loà,
nhưng đôi mắt tâm hồn đã chết. Sự
khác biệt đó là niềm tin và đức tin: anh mù
được phép lạ đã tin Chúa Giêsu. Còn những
người Pha-ri-sêu thấy phép lạ nhưng không tin Chúa.
Đây là một phép lạ
đặc biệt chưa từng có trong nhân loại.
Cho đến ngày nay, mặc dầu y khoa tiến bộ
nhưng vẫn còn bó tay trước
những người mù bẩm sinh. Còn đối với
những người vì một lý do nào đó bị mù loà thì
y khoa có thể dùng một loại ra-đa hay dùng con mắt
của người khác thay vào thì có thể thấy
được. Trường hợp anh mù trong Tin Mừng,
Chúa Giêsu không làm thế, Ngài không thay mắt cho anh, Ngài dùng
quyền năng Thiên Chúa để làm một phép lạ phi
thường cho anh được sáng mắt. Nhưng trên
hết con mắt đức tin của anh được
bừng sáng, anh nhận ra Đức Kitô mà nhiều
người sáng mắt không nhận ra.
Theo ý nghĩa tượng trưng, trong
phạm vi thiêng liêng, bệnh mù về
tinh thần là tình trạng mê muội của những
người sống trong tội lỗi và tình trạng mù
quáng của những kẻ cố chấp. Vậy
hình thức thứ nhất của bệnh mù về tinh
thần là tội lỗi, nó che lấp mắt linh hồn
làm cho linh hồn không nhận ra Chúa và cũng chẳng
nhận ra thánh ý Chúa. Vì thế, Kinh Thánh
gọi những người sống trong tội lỗi
như ngồi trong chỗ tối tăm, ngồi trong bóng
đêm, ngồi trong bóng sự chết. Một hình
thức khác của bệnh mù tinh thần là sự cố
chấp, tức là bảo thủ trong sự lập
luận sai lầm hay càn dở của
mình và nhất định không chịu phục thiện. Chính vì thế mà nhiều lần Chúa Giêsu đã
gọi những người Pha-ri-sêu là những
người mù quáng, bài Tin Mừng hôm nay là một
điển hình. Chúa đã nói: "Tôi đến
thế gian này chính là để những kẻ không xem
thấy thì được xem thấy, còn những kẻ
xem thấy sẽ trở nên đui mù". Chúng ta thường
nói về những người cố chấp: "Không ai
điếc nặng cho bằng kẻ không muốn nghe",
thì chúng ta cũng có thể nói về những người
mù tinh thần: "Không ai mù quáng nặng cho bằng kẻ
mở mắt mà không muốn xem".
Chúng ta có đang sống trong
tình trạng mù lòa về tinh thần không? Chúng ta tội lỗi và cố chấp ư? Và hiện giờ chúng ta vẫn còn cố chấp
trong tình trạng đó ư? Không
được đâu. Chúng ta hãy đến với
Chúa Giêsu để Ngài thắp sáng cuộc đời chúng
ta như Ngài đã thắp sáng cuộc đời
người mù xưa kia. Nói khác đi,
trên đời này không ai có thể giải thoát chúng ta
khỏi tội lỗi, vì lý do ai cũng có tội, chỉ
có một Đấng không có tội gì, tuyệt đối
chí thánh, mới có quyền cứu giúp chúng ta mà thôi, đó là
Chúa Giêsu. Vấn đề là chúng ta có bằng
lòng đến với Chúa không?
Người mù sung sướng biết bao khi
đôi mắt anh ta mở ra và nhìn thấy Chúa Giêsu, vị ân nhân vĩ đại của mình. Chúa đã
thắp sáng đời anh. Trong Mùa Chay, chúng ta hãy đến
với Chúa Giêsu, vị đại ân nhân
của chúng ta, để Chúa mở mắt tinh thần cho
chúng ta, để Chúa thắp sáng đời chúng ta.
|