Để
công trình Thiên Chúa được
tỏ hiện
(Suy niệm
của Giuse Phạm Duy Thạch)
Tin Mừng ghi
lại nhiều lần Đức Giêsu làm cho người
mù được sáng mắt, nhưng làm cho “người mù
từ thuở mới sinh” được sáng mắt thì
chỉ có một lần duy nhất và chỉ có Tin Mừng
thứ tư ghi lại. là một tình trạng khốn cùng
trong thời gian lâu dài và khó rõ căn nguyên. Tình trạng mù
từ thuở mới sinh là nền cho câu hỏi nan
giải của các môn đệ: “ai đã phạm tội
khiến người này sinh ra đã bị mù, anh ta hay cha
mẹ anh ta? " (Ga 9,2). Danh ngữ “các môn đệ” (số
nhiều) chứng tỏ đây là câu hỏi của một
tập thể chứ không chỉ một vài cá nhân. Câu
hỏi của các môn đệ phát xuất từ lối
suy nghĩ chung của người Do thái vẫn còn tồn
tại cho đến thời Đức Giêsu: Mọi
bệnh tật hay mọi nỗi bất hạnh
đều là hậu quả của tội lỗi của
chính đương sự hay của cha mẹ
đương sự.
Quan niệm này
được trình bày rất rõ trong câu chuyện của
ông Job được ghi lại trong sách Job (G 4,7-8). Thật
ra, ngày nay người ta cũng có thể thấy một số
trường hợp bệnh tật là do chính những
lỗi lầm con người gây nên. Người ta cũng
phát hiện nhiều căn bệnh bẩm sinh của các
trẻ em do chính những sai lầm của cha mẹ
của chúng gây nên hoặc do di truyền. Kitô giáo cũng
thừa nhận nguồn gốc sự ác, sự xấu là
từ tội lỗi của con người (1Cr 15,22). Tuy
nhiên, trong trình thuật này Đức Giêsu không hề coi tình
trạng của Anh mù là do hậu quả của tội.
Ngài không chấp nhận bất cứ một phương
án nào do các môn đệ đưa ra. Ngài nói: “Không phải
anh ta, cũng chẳng phải cha mẹ anh ta đã phạm
tội. Nhưng sở dĩ như thế là để
thiên hạ nhìn thấy công trình của Thiên Chúa
được tỏ hiện nơi anh” (Ga 9,3). Đó là
một lối trả lời hết sức lạ lùng. Câu
trả lời này vừa giúp cho suy nghĩ của các môn
đệ về đúng với quỹ đạo của
nó, giải thoát cho các môn đệ khỏi một quan
niệm tiêu cực vừa giúp cho anh mù thoát khỏi
những cái nhìn soi mói, khinh bỉ của người
đời.
Từ
đầu đến giờ bệnh nhân chưa hề nói
một lời nào, anh không xin chữa lành, chỉ có
Đức Giêsu và các môn đệ nói về căn bệnh
anh ta. Có thể anh ta cũng có cùng suy nghĩ với các môn
đệ và những người Do thái khác: “mình bị mù
từ thuở mới sinh có thể là do tội lỗi
của cha mẹ mình hay ông bà mình”. Nếu thế, thì
Đức Giêsu cũng bước đầu giải thoát
cho anh khỏi cái suy nghĩ tiêu cực anh đang cùng
với người khác khoác lên thân mình. Câu trả lời
của Đức Giêsu thật tuyệt vời. Nó không
những rũ bỏ tình trạng cùng cực của anh
khỏi mọi ý nghĩ tiêu cực mà còn mặc lấy cho
nó một ý nghĩa hết sức tốt đẹp: là
phương tiện cho công trình Thiên Chúa được
tỏ hiện. Từ một người tưởng
chừng như không ngóc đầu lên nỗi anh bỗng
được khoác lên vinh dự được cộng
tác cách đặc biệt vào công việc của Chúa.
Công việc
đó là công việc gì chưa biết, nhưng chắc
chắn là một công việc hết sức khẩn
thiết, cao trọng và có ý nghĩa đặc biệt
đến sứ mạng của Đức Giêsu. Ngay sau
đó Đức Giêsu đã tuyên bố: “Chúng ta phải
thực hiện công trình của Đấng đã sai
Thầy” (Ga 9,4). Động từ “phải” cho thấy tính
chất khẩn thiết nếu không muốn nói là bắt
buộc Đức Giêsu và các môn đệ phải làm.
Việc ấy chắc rất cao trọng và tốt
đẹp vì nó không phải của việc riêng của
Đức Giêsu hay các môn đệ nhưng là việc
của “Đấng đã sai Thầy”. Hơn nữa
thực hiện công việc của Chúa Cha chính là
lương thực của Đức Giêsu:
"Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn
của Đấng đã sai Thầy, và hoàn tất công trình
của Người.”(Ga 4,34). Ngoài ra, Đức Giêsu còn
bộc lộ bản chất của mình khi nói: “Tôi là ánh
sáng thế gian”.
Tất cả
những đặc tính đó cho thấy Đức Giêsu
không thể không làm dấu lạ này dẫu rằng Anh mù
chưa từng lên tiếng van xin. Và dĩ nhiên, theo logic
của câu chuyện thì việc gì đến ắt sẽ
đến. Đức Giêsu đã thực hiện dấu
lạ chữa lành anh mù từ thuở mới sinh.
Đến
đây, câu hỏi của các môn đệ nhằm tìm căn
nguyên của một căn bệnh đã chuyển sang chính
công việc của Thiên Chúa qua bàn tay Đức Giêsu. Chính
Đức Giêsu đã lấy bùn làm từ nước bọt
của Ngài và đất để xức vào mắt anh
để anh có thể nhìn thấy lại.
Trong dấu
lạ này có một chi tiết phụ nhưng lại
rất lý thú. Sau khi đã xức bùn vào mắt anh mù,
Đức Giêsu bảo anh đến rửa ở hồ
Siloam, sau khi rửa thì anh nhìn thấy được. Tác
giả ghi chú: Siloam có nghĩa là “người
được sai phái”. Người được sai phái
chính là một trong những danh hiệu mà tác giả Tin
Mừng thứ tư dùng cho Đức Giêsu. Như thế,
đến rửa ở hồ Siloam còn có một ý nghĩa
ẩn dụ khác. Đó là rửa trong chính chính Đức Giêsu,
người được Chúa Cha sai đến.
Đức Giêsu đã chứng tỏ Ngài là ánh sáng thế
gian khi ban lại ánh sáng cho anh mù.
Dĩ nhiên,
dấu lạ chữa lành anh mù lại chỉ là một
tiền cảnh cho một dấu lạ khác có ý nghĩa sâu
sắc hơn nhiều. Tiến trình chữa lành anh mù
trải qua hai gian đoạn chính: (1) hành động
của Đức Giêsu: xức bùn vào mắt anh; (2) hành
động của chính anh mù: đi rửa ở hồ
Siloam. Đó cũng chính là biểu tượng hai giai
đoạn cho cuộc chữa lành nội tâm anh mù sau này.
Sau khi
Đức Giêsu làm dấu lạ, Ngài dường như
biến mất để lại một mình anh mù
đối diện với cuộc sống mới
thường ngày của anh. Từ một người không
ai để ý đến, hoặc chỉ để ý
đến với cái nhìn coi thường và khinh bỉ anh
bỗng trở nên một nhân vật nổi tiếng
khắp kinh thành Giêsu-sa-lem trong những ngày sau đó. Anh
đã phải đối diện và trả lời rất
nhiều câu hỏi của nhiều nhóm người khác nhau
về việc anh nhìn thấy được. Từ
những người đi đường, những
người xóm giềng, đến những chức
sắc giáo hội như nhóm Pharisêu. Từ lúc nhìn thấy
được, cuộc đời anh đâm ra rắc
rối và trải qua nhiều cung bậc cảm xúc khi
phải đối diện với nhiều nhóm
người và phải trả lời nhiều câu hỏi
như thế.
Tuy nhiên, tất
cả những khó khăn vất vả xen lẫn niềm
tự hào, hãnh diện ấy chính là những yếu tố
hết sức cần thiết để anh từ từ
“rửa trong người được sai phái” để
rồi đạt được kết quả tốt
đẹp nhất cho cuộc đời mình. Những
rắc rối những ngày sau đó đã làm cho anh từng
bước nhận ra Con Người (Đức Giêsu) là ai
trong cuộc đời mình. Tác giả Tin Mừng đã mô
tả hết sức tài tình từng bước khám phá
Đức Giêsu của Anh mù.
Bước thứ 1: Trước những chất
vấn của “những người láng giềng” (Ga 9,8) và
“những người khác” cũng như “những
người khác nữa” (Ga 9,9), Anh chỉ cho biết
“Người đó tên là Giêsu”.
Bước thứ 2: Trước những chất
vấn của những người Pharisêu, Anh ta tiến xa
hơn một bước khi nói: “Người ấy là
một ngôn sứ” (Ga 9,17).
Bước thứ 3: Một loạt những biện
luận rất hợp lý của Anh để chứng minh
cho nhóm Pharisêu và người Do thái biết: Đức Giêsu
không phải là người tội lỗi (Ga 9,25) vì Thiên
Chúa đã lắng nghe Ngài cầu xin (Ga 9,31) và Ngài đã làm
được dấu lạ chưa từng thấy:
“mở mắt cho người mù từ khi mới sinh” (Ga
9,32). Loạt biện luận ấy dẫn đến kết
luận của chính Anh mù: Đức Giêsu đến từ
Thiên Chúa (Ga 9,33). Những lời biện luận mạnh
mẽ và đầy thuyết phục ấy đã khiến
Anh phải trả một giá quá đắt: “họ trục
xuất anh ta” (Ga 9,34). Bị trục xuất khỏi
hội đường là nỗi ám ảnh rất đáng
sợ cho các tín hữu thời sơ khai. Chính vì thế mà
cha mẹ Anh mù đã không dám nói gì về sự kiện Anh
được chữa lành mà chỉ xác nhận là
trước kia anh ta bị mù. Tác giả lý giải nguyên
nhân của thái độ này là vì họ “sợ những
người Do thái”. Quả thế, những người Do
thái quyết định: Những ai tuyên xưng Đức
Giêsu là Đấng Kitô thì sẽ bị trở thành
“người bị khai trừ khỏi hội
đường” (Ga 9,22). Không giống như cha mẹ
của mình, Anh mù đã mạnh dạn bày tỏ chính
kiến của mình về Đức Giêsu. Đó chính là
nguyên cớ khiến cho Anh bị trục xuất. Và đó
cũng chính là cơ hội để cho anh đi
đến bước cuối cùng trên chặng
đường khám phá Đức Giêsu.
Bước thứ 4: Đức Giêsu nghe nói họ
đã trục xuất anh. Khi gặp lại anh,
Người hỏi: "Anh có tin vào Con Người không?
Khi đã biết Con Người chính là “người
đang nói với anh” (Ga 9,37) anh ta đã tuyên xưng:
“Thưa Ngài, tôi tin” rồi “bái lạy Người” (Ga 9,38).
Hành trình tìm
kiếm Đức Giêsu của Anh mù được tóm
gọn lại như sau: “Người đó tên là Giêsu” “Người
ấy là một ngôn sứ” “Người ấy đến
từ Thiên Chúa” “Thưa Ngài, tôi tin” “bái lạy
Người”.
Tin vào
Đức Giêsu là điều rất quan trọng trong
thần học Tin Mừng thứ tư bởi lẽ nó
sẽ là yếu tố quyết định cho sự
sống còn hay hư mất của một con người:
“Ai tin vào người Con thì được sự sống
đời đời; còn kẻ nào không chịu tin vào
người Con thì không được sự sống,
nhưng cơn thịnh nộ của Thiên Chúa đè
nặng trên kẻ ấy” (Ga 3,36).
Như vậy,
hai giai đoạn trong dấu lạ chữa lành
người mù từ thuở mới sinh của Đức
Giêsu được lên đến cao trào khi anh mù tuyên
xưng niềm tin vào Đức Giêsu. Việc tuyên xưng
niềm tin ấy là một dấu hiệu cho thấy anh mù
được chữa trị tận căn bệnh
của mình. Đức Giêsu đã mở mắt cho anh nhìn
thấy con đường dương gian, nhưng trên
hết và tuyệt vời nhất là Ngài cho anh nhìn thấy
con đường đưa đến sự sống
vĩnh cửu. Tuyên xưng niềm tin vào Đức Giêsu là
mở ra cho Anh con đường sống mãi mãi.
Tạm kết
Dấu lạ
chữa lành “anh mù tử thuở mới sinh” cho thấy
một lối nhìn rất mới mẻ, đầy tích
cực của Đức Giêsu trước những đau
khổ bệnh tật. Thiên Chúa không hề muốn cho
người ta đau khổ nhưng quả thật Ngài có
thể “viết thẳng trên những đường cong”;
Ngài có thể mặc cho đau khổ những giá trị
thật cao vời. Đau khổ mà con người đang
mang có thể trở nên một cơ hội tốt
để Thiên Chúa làm công việc của Ngài. Thật
vậy, việc chữa anh mù từ thuở mới sinh
của Đức Giêsu đã cho thấy điều ấy.
Có thể nói Đức Giêsu đã từng bước
đưa anh từ trong đau khổ tối tăm
bước ra cuộc đời đầy ánh sáng huy hoàng.
Lương
thực của Đức Giêsu chính là “thi hành ý muốn
của Đấng đã sai Thầy, và hoàn tất công trình
của Người.” Tất cả những ai đang
chịu gánh nặng của những đau khổ thể
xác và đang ở trong sự mù loà về đức tin
đều là đối tượng mà Đức Giêsu tìm
kiếm và cứu chữa. Tất cả những cứu
chữa bệnh tật của Ngài chỉ nhằm một
điều: giúp cho người ta nhận biết Ngài, tuyên
xưng niềm tin vào Ngài để được sự
sống đời đời.
Dấu lạ
chữa lành “anh mù từ thuở mới sinh” (9,1-38) cùng
với dấu lạ “cho anh La-za-rô sống lại” (11,1-44)
là hai dấu lạ cuối cùng, đánh dấu đỉnh
điểm công trình của Đức Giêsu qua việc
thực thi các dấu lạ. Hai dấu lạ này tỏ
lộ rất rõ ràng hai vai trò của Đức Giêsu: là ánh
sáng thế gian và là sự sống của thế gian.
Cả hai được tóm lại trong câu tuyên bố
của Đức Giêsu: “Tôi là ánh sáng thế gian. Ai theo tôi,
sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ
nhận được ánh sáng đem lại sự
sống" (Ga 8,12).
|