Bây giờ tôi đã thấy – Mark Link
"Bí tích
rửa tội cất đi sự mù loà tâm linh của chúng
ta và mở mắt cho chúng ta được nhìn thấy Chúa
Giêsu."
Vào thập niên
1960, John Howard Griffin ngụy trang thành một người da
đen đi chơi vòng quanh miền Nam. Ông muốn trực tiếp
cảm nghiệm được sự kiện phải làm
người da đen trong những năm ầm ĩ về
vấn đề chủng tộc này. Griffin mô tả lại cảm nghiệm
của mình trong một cuốn sách nhan đề Black Like Me
(đen như tôi). Cuốn sách này về sau được
dựng thành phim.
Tuy nhiên còn
một khía cạnh khác trong cuộc đời của John
Howard Griffin mà rất ít người biết đến:
trong thế chiến thứ hai, John đã bị mù trong
một vụ nổ máy bay suốt 12 năm sau đó, ông
không trông thấy gì cả. Một hôm, trong khi bước
xuống con phố cạnh nhà bố mẹ ông ở Texas, thình lình John bỗng thấy
được "cát đỏ" (red sand) trước
mắt ông. Thị giác của ông đã phục hồi
trở lại mà chẳng hề báo trước. Về sau,
một bác sĩ chuyên khoa mắt cắt nghĩa cho ông là
vết máu tụ thần kinh thị giác do vụ nổ gây
ra được khai thông, vì thế thị giác ông phục
hồi trở lại. Khi bình luận về kinh nghiệm
này, Griffin đã kể lại cho một
phóng viên báo chí như sau:
"Quí bạn
không cảm nghiệm được những gì mà một
ông bố cảm nghiệm khi nhìn thấy con cái mình lần
đầu tiên đâu. Cả bố với con đều tuyệt
vời hơn tôi nghĩ rất nhiều"
Giai đoạn
bi đát trong đời Griffin giúp anh ta đánh giá sâu sắc
hơn câu chuyện của bài Phúc âm hôm nay, nó giúp chúng ta
hiểu rõ hơn cảm giác người mù từ lúc
mới sinh khi anh ta được Chúa Giêsu chữa lành
thật kỳ kiệu như thế nào.
Tuy nhiên, trong câu
chuyện người mù trên còn có một phép lạ thứ
hai. Phép lạ này còn tuyệt diệu hơn: đó là
đức tin hay còn gọi là ánh sáng thiêng liêng mà Đức
Giêsu ban cho người mù ấy, chính phép lạ thứ hai
này tức ân sủng đức tin đã khiến cho anh quì
gối xuống nói với Đức Giêsu với tư cách
là "Chúa". Thánh Gioan đã nhấn mạnh phép lạ
thứ hai này tức ân sủng đức tin một cách
thâm thuý trong bài Phúc âm hôm nay.
Chúng ta hãy xem xét
kỹ hơn về điểm này.
Điều
đầu tiên chúng ta để ý đến trong phép lạ
này là phép lạ ấy diễn ra từ từ không xảy
ra ngay tức khắc. Chẳng hạn, phản ứng
đầu tiên của anh mù đối với Đức
Giêsu là anh ta xem Đức Giêsu cũng giống như
người bình thường khác. Vì thế, khi vài
người hỏi anh ta về sự lành bệnh của
mình, anh liền trả lời: "Cái ông có tên là Giêsu
ấy lấy một ít bùn bôi lên mắt tôi và bảo tôi
tới hồ Silôê rửa mặt. Thế là tôi đi và ngay
khi rửa xong tôi liềân được trông thấy."
Đầu tiên
gã mù chỉ coi Đức Giêsu như một người
tuy khá đặc biệt nhưng dầu sao cũng chỉ
là một con người.
Thế rồi
anh ta bước qua nhận thức thứ hai về
Đức Giêsu khi đám Pharisêu điều tra anh: "Mày
bảo ông Giêsu chữa cho mày khỏi mù à! Vậy mày cho
rằng ông ấy là ai?" anh ta liền đáp: "Ông
ấy là một tiên tri". Câu trả lời trên đây
chứng tỏ rõ ràng nhận thức của anh mù về
Đức Giêsu đã nhảy vọt một bước
vọt khổng lồ về phía trước. Càng suy
nghĩ đến sự kiện xảy ra, gã ta càng xác tín
Đức Giêsu không chỉ là một người như
những người khác mà Ngài còn là một vị tiên tri.
Điều này dẫn chúng ta đến nhận thức sau
cùng của anh mù về Đức Giêsu.
Cuối ngày anh
mù mới được gặp mặt đối mặt
với Đức Giêsu, vì khi anh mù đi rửa mắt
ở hồ Silôê về, thì Đức Giêsu, không còn quanh
quẩn đó nữa. Lúc này, khi gặp lại anh mù,
Đức Giêsu nhìn thẳng vào mắt và nói: "Anh có tin
vào CON NGƯỜI" không? Anh ta trả lời: Thưa
Ngài, xin nói cho tôi biết vị ấy là ai để tôi tin.
Đức Giêsu trả lời: "Anh đã thấy vị
ấy rồi, vị ấy chính là kẻ hiện đang
nói chuyện với anh". Anh đáp ngay: "Lạy Chúa,
con tin!" vừa nói anh vừa quì gối xuống
trước mặt Đức Giêsu.
Như thế,
nhận thức của anh về Chúa Giêsu đã nhảy
bước cuối cùng về phía trước. Anh nhận
ra Đức Giêsu không phải chỉ là một
người bình thường hoặc một vị tiên tri,
mà Ngài còn là Thiên Chúa, vị Chúa mà "muôn loài trên trời
dưới đất, cả trong địa ngục
phải quì gối" (Pl 2: 10). Ân sủng đức tin, hay
"ánh sáng tâm linh" mà Đức Giêsu ban cho anh mù còn
kỳ diệu hơn sự phục hồi thị giác cho
anh nữa.
Không cần bàn
bạc quá nhiều về ân sủng đức tin nơi
anh mù nọ, chúng ta nên nhớ lại chúng ta cũng đã
nhận được ân sủng đức tin này do Đức
Giêsu ban cho trong bí tích rửa tội.
Trước khi
thanh tẩy trong nước rửa tội, chúng ta cũng
bị "đui mù tâm linh" như anh mù trong Phúc âm hôm
nay. Nhưng sau khi được rửa tội,
Đức Giêsu trở nên quí báu hơn nhiều đối
với chúng ta. Ngài trở thành một kẻ hết sức
thân mật đối với chúng ta.
Điều này
dẫn đến điểm tương tự thứ hai
giữa chúng ta và anh mù trong Phúc âm hôm nay. Ngoài việc
nhận lãnh ân sủng đức tin, nhận thức
của chúng ta về Chúa Giêsu cũng dần dần lớn
lên giống như nơi anh mù ấy. Chẳng hạn khi
còn rất bé chúng ta thường mường tượng
Đức Giêsu là một con người phi thường.
Đến lúc lớn lên. Nhận thức của chúng ta
về Ngài cũng trưởng thành hơn. Cuối cùng
nhận thức ấy đạt được hình
thức viên mãn nhất: chúng ta nhận ra Ngài đúng như
bản chất thực sự về Ngài, là Con Thiên Chúa.
Điều thú vị là khi chúng ta càng học hỏi về
Đức Giêsu thì Ngài càng trở nên cao cả hơn
đối với chúng ta. Thông thường, có sự
kiện đáng buồn trong các mối tương giao khác
là càng tìm hiểu về kẻ khác chúng ta càng nhận
khiếm khuyết của kẻ ấy. Nhưng trong
trường hợp Đức Giêsu thì không như thế.
Càng hiểu biết về Ngài, chúng ta càng thấy Ngài
tuyệt diệu và vinh hiển hơn.
Để
kết thúc, chúng ta hãy trích lại lời Albert Schweitzer
ở cuối cuốn sách của ông nhan đề The Quest
for The Historical Jesus (Tìm kiếm Giêsu Lịch sử) Schweitzer
từng là nhạc sĩ dương cầm thính phòng ở
Âu Châu. Ông đã từ bỏ nghề nghiệp âm nhạc
của mình để trở thành một bác sĩ, và ông
đã đến sống ở Phi châu với tư cách
một thừa sai. Schweizer viết: "Chúa Giêsu đến
với chúng ta như một người vô danh, chẳng
khác nào thủơ xưa người đến với các
tông đồ trên bờ biển. Ngài nói với chúng ta
cũng chính những lời Ngài đã từng nói với
họ: "Hãy theo Ta!". Và bất cứ ai chấp
nhận lời mời gọi của Ngài thì dù họ thông
thái hay tầm thường, trẻ trung hoặc già nua, Chúa
Giêsu đều mạc khải chính Ngài cho họ ngay trong
những truân chuyên và đau khổ của họ. Và qua kinh
nghiệm riêng của mình, họ sẽ biết
được "NGÀI là ai?".
|