Ánh sáng cho người
mù – Lm FX Vũ
Phan Long
1.- Ngữ cảnh
Bản văn
đọc hôm nay thuộc về “Các công việc, các dấu
lạ và các cuộc tranh luận của Đức Giêsu
(dịp các đại lễ Do Thái)” (Ga 5,1–10,42) với
bố cục như sau:
B (5,1-47): Công
việc Đức Giêsu, Con Thiên Chúa, chữa người
nằm liệt (vào một ngày sa-bát)
C (6,1-71):
Dấu lạ nuôi năm ngàn người ăn no do bánh hằng
sống (trước lễ Vượt Qua)
D (7,1–8,59):
Đức Giêsu, nguồn nước hằng sống và ánh
sáng cho trần gian (dịp lễ Lều)
D’(9,1-41): Hành vi
ban khả năng nhìn cho một người mù nhờ ánh
sáng của trần gian (vào một ngày sa-bát)
C’ (10,1-21): Các
dụ ngôn về đàn chiên, cửa, việc trao ban
mạng sống và người mục tử nhân lành
B’(10,22-42): Các
công việc và chân tính của Đức Giêsu, Đấng
Kitô, Con Thiên Chúa (dịp lễ Cung hiến)
Việc
chữa lành anh mù bẩm sinh được tác giả TM IV
ghi nhận như là mộttrong những “dấu lạ” quan trọng
“để anh em tin rằng Đức Giêsu là Đấng
Kitô, Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được
sự sống nhờ danh Người” (20,31).
Tác giả trung
thành với cách viết của ngài: trình bày biến cố
(= bình diện thực hành) và diễn từ giải
nghĩa (= bình diện nhận thức). Phân tích kỹ
hơn, ta thấy truyện được trình bày như
một phiên tòa xử Đức Giêsu xuyên qua những
cuộc gặp gỡ của anh mù với nhiều hạng
người, để rồi cuối cùng lại chính
Đức Giêsu là người đứng ra kết án.
Tấn bi kịch đã được báo trước trong
hai chương 7 và 8. Khi các thuộc hạ trở về mà
không bắt Đức Giêsu, các thượng tế và
người Pharisêu đã kêu lên: “Còn bọn dân đen này,
thứ người không biết Lề Luật, đúng là
quân bị nguyền rủa” (7,49). Đấy là như
tiền đề cho việc họ nổi giận với
người mù, vì anh ta “sinh ra trong tội”, mà lại dám lên
mặt sửa dạy các “môn đệ của ông Môsê”
(9,28-34). Câu truyện người đàn bà ngoại tình là
mộtlý do thứ hai, bởi vì trong sự cố này,
cũng vẫn là Đức Giêsu đã “tước vũ
khí” của họ khi nói: “Ai trong các ông sạch tội, thì
cứ việc lấy đá mà ném trước đi” (8,7).
Rồi sau đó là những câu nói đầy thách thức:
8,21.24.35-44.46.
2.- Bố cục
Bản văn
có thể chia thành bốn phần:
1) Đức
Giêsu và các môn đệ đối diện với anh mù
(9,1-5);
2) Đức
Giêsu chữa lành anh mù (9,6-7);
3) Cuộc
xử án (9,8-33):
a) Láng giềng anh mù (9,8-12),
b) Người Pharisêu (9,13-17),
c) Cha mẹ anh mù (9,18-23),
d) Người Pharisêu (9,24-34a);
4) Tuyên án
(9,34b-41):
a) Anh mù bị người Pharisêu
tống ra ngoài (9,34b),
b) Anh mù được Đức
Giêsu đón tiếp và anh tin nhận Người (9,35-38),
c) Đức Giêsu kết án
người Pharisêu (9,39-41).
Chúng ta có
thể nhận ra bảy cuộc gặp gỡ trong
truyện này:
1- Đức
Giêsu và anh mù (chữa mắt: c. 6);
2- Anh mù và láng
giềng (c. 8);
3- Anh mù và
người Pharisêu (c. 13);
4- Anh mù và
người Do Thái và cha mẹ (c. 18);
5- Anh mù và
người Do Thái (c. 24);
6- Đức
Giêsu và anh mù (tin: c. 35);
7- Đức
Giêsu và người Pharisêu (c. 40).
3.- Vài điểm chú giải
- ai đã phạm
tội (2): Mặc
dù có sách Gióp, lý thuyết cổ truyền vẫn tồn
tại: người ta nghĩ rằng có mộtquan hệ
nhân quả trực tiếp giữa tội và bệnh
tật. Về trường hợp một em bé mới sinh
đã mắc bệnh tật, xem Xh 20,5.
- như vậy là
để công trình của Thiên Chúa nơi anh được
tỏ hiện (3):
Các kinh sư nói đến việc Thiên Chúa ban cho loài
người “những hình phạt tình yêu”, nghĩa là những
sửa dạy mà nếu người ta quảng đại
chấp nhận, sẽ đưa đến cho họ
đời sống dài lâu và những phần thưởng.
Nhưng hình như tư tưởng của Đức
Giêsu ở đây hoăc ở Ga 11,4 không phải là như
thế; Đức Giêsu lại cho thấy rằng Thiên Chúa
vận hành lịch sử để tôn vinh Danh
Người. Chúng ta có mộtví dụ rõ ràng ở Xh 9,16,
được trích dẫn trong Rm 9,17.
- Thầy là ánh sáng cho
trần gian (5):
Rất có thể lời này được rút từ Is 49,6,
trong đó Người Tôi Trung của Đức Chúa
được mô tả như là mộtánh sáng cho muôn dân.
Chính là trong dịp Lễ Lều mà Đức Giêsu đã
tuyên bố lần đầu: “Chính tôi là ánh sáng cho trần
gian” (8,12).
- nhổ nước
miếng (6):
Chỉ có Ga và Mc (7,33; 8,23) ghi lại rằng Đức
Giêsu nhổ nước miếng. Người xưa coi
nước miếng như là mộtthứ thuốc
chữa mắt và cả những phần khác trên thân
thể (Tacite, Historiae IV, 81). Dường như sức
chữa bệnh của nước miếng sẽ gia
tăng nếu trộn với đất hay đất sét.
Đức Giêsu đã làm cử chỉ nhổ nước
miếng mà trộn bùn không phải vì các thứ này cần
để có thể làm phép lạ, nhưng là để “gây
chuyện” với người Pharisêu.
- hồ Silôác (7): Hôm nay, ta còn thấy cái hồ
này ở phía đông nam Giêrusalem, ở cuối thung lũng
Tyrôpêôn. Con suối Gihôn đã cung cấp nước cho
hồ này nhờ con kênh vua Xítkigia (Ézéchias) đã cho đào
trong đá (x. 2 V 20,20; 2 Sb 32,30; Hc 48,17). Silôác có nghĩa là
“người sai phái” (= người gửi [nước]).
Tác giả Ga ghi nhận tên này, nhưng lại dịch
như mộttừ ngữ ở thụ động cách:
“Silôác có nghĩa là: người được sai phái” (c.
7). Rõ ràng ngài dùng từ ngữ như mộtbiểu
tượng. Trong TM IV, hơn 40 lần Đức Giêsu
được gọi là “Đấng được sai
phái”, và Người cũng vừa nói với các môn
đệ là Người phải “thực hiện công trình
của Đấng đã sai phái Thầy” (c. 4). Vậy tác
giả muốn nói rằng hồ Silôác, cũng như
Đền Thờ, như lễ Vượt Qua, như ngày
sa-bát, như mọi sự trong Israel, đều
được quy hướng về Đức Giêsu và rút
ra từ Người ý nghĩa vĩnh viễn và chân
thật. Chính tên của cái hồ loan báo rằng Đấng
Mêsia sẽ đến múc nước và thông ban cho
nước hồ mộtsức mạnh thần linh.
Ngoài ra cái
hồ này còn có mộtý nghĩa thiêng liêng. Ngôn sứ Is (8,6)
đã coi cái hồ có dòng nước chảy êm ả này
như mộtbiểu tượng về đời
sống an bình của Israel dưới sự che chở
của Thiên Chúa. Nhưng vị ngôn sứ cũng nhân danh
Đức Chúa mà than thở rằng “dân này khinh dể
nước mương Silôác chảy lững lờ”. Có lẽ tác
giả coi sự từ khước này như
mộtlời loan báo sự cứng lòng của người
Do Thái thời Đức Giêsu.
Ngoài ra,
nước hồ còn được dùng trong Lễ
Lều. Mỗi ngày trong tuần Lễ Lều, người
ta đi rước xuống hồ. Một tư tế
long trọng múc nước, rồi đi rước lên
Đền Thờ. Vị tư tế ấy vừa
đổ nước trên bàn thờ vừa đọc
những lời kinh theo nghi thức: họ xin Thiên Chúa ban
mưa xuống cho mùa sắp tới; họ đọc những
bài đọc Kinh Thánh tưởng niệm phép lạ
nước vọt ra từ tảng đá trong sa mạc và
loan báo việc canh tân thiêng liêng Sion vào thời Đấng
Mêsia. Nhiều liên hệ giữa truyện anh mù và những
biến cố dịp Lễ Lều trong TM IV (ch. 7 và 8)
mời ta đọc phép lạ này dưới ánh sáng của
lễ nghi Lễ Lều. Điều này càng có lý khi ta
biết rằng lễ nước, Lễ Lều cũng là
lễ ánh sáng. Mỗi buổi chiều, người ta
đốt đèn đuốc trong Đền Thờ. Và ngôn
sứ Dacaria đã mô tả Ngày của Đức Chúa
như là mở đầu cho việc muôn dân cử hành
Lễ Lều thật hùng vĩ (x. Dcr 14,7). Đây là khung
cảnh rất phù hợp với lời tuyên bố của
Đức Giêsu: “Tôi là ánh sáng cho trần gian” và với
“dấu lạ” anh mù: có lễ ánh sáng, có việc rưới
nước hồ Silôác và có những niềm hy vọng vào
Đấng Mêsia.
Những dây liên
hệ này soi sáng cho thấy ý nghĩa của biểu
tượng “Đức Giêsu-Ánh-sáng-cho-trần-gian”, cũng
như “dấu lạ” diễn tả biểu
tượng này. Những phúc lành và việc tuôn đổ
Thánh Thần, được tượng trưng trong
dịp Lễ Lều bằng nước Silôác, sẽ
được Đức Giêsu ban cho trần gian: trong tay Người,
“nước mương Silôác chảy lững lờ” sẽ chan hòa
ánh sáng và sức sống.
- những người
Pharisêu (13):
Những người phỏng vấn được gọi
là Pharisêu trong cc. 13.15.16 (cả c. 40); ở cc. 18 và 22, thì
được gọi là “người Do Thái”, là từ
ngữ quen thuộc hơn với Ga.
- vì không giữ ngày
sa-bát (16): Trong TM
IV, từ ngữ sabbaton được dùng 13 lần (Ga
5,9.10.16.18; 7,22.23[2x]; 9,14.16; 19,31[2x]; 20,1.19). Những bản
văn quan trọng nhất là các tranh luận về ngày
sa-bát trong Ga 5,1-18; 7,19-24 và 9,14-16. Về việc chữa
người mù, có những nhận định sau: Thứ
nhất, bởi vì mạng sống của anh mù không bị
đe dọa, lẽ ra Đức Giêsu nên chờ
đến mộtngày khác mà chữa anh. Thứ hai, trong
số ba mươi chín việc bị cấm làm trong ngày
sa-bát (Mishna, Shabbath 7,2), có việc nhào trộn bột.
Thứ ba, thể theo truyền thống sau này của Do Thái
giáo (TalBab, Abodah Zarah 28b), có mộtý kiến nói rằng không
được phép xức dầu vào mắt ngày sa-bát.
Thứ tư, truyền thống (TalJer, Shabbath 14d và 17f)
cũng cấm nhổ nước miếng lên mắt ngày
sa-bát.
- một vị ngôn
sứ (17): Hai
vị ngôn sứ nổi tiếng với việc làm phép
lạ chữa bệnh là Êlia và Êlisa (x. cả Is 38,21). Có
lẽ anh này đang nghĩ đến việc ngôn sứ
Êlisa bảo Naaman đi tắm trong sông Giođan. Ít ra có
lẽ anh mù tin rằng Đức Giêsu có quyền lực
thần linh và “ngôn sứ” là hạng người như
thế.
- trục xuất
khỏi hội đường (22): Dịch sát câu 22 là: “...
kẻ nào tuyên xưng Người là Đấng Kitô, sẽ
trở thành
người-bị-trục-xuất-khỏi-hội-đường
(aposynagôgos, do apo và synagôgê)”. Có lẽ tác giả đang
nghĩ đến việc giới chức Do Thái loại
các Kitô hữu gốc Do Thái khỏi hội đường
(= dứt phép thông công) vào cuối thế kỷ i, sau khi
Đền Thờ bị phá hủy.
- Chúng ta (24): Nicôđêmô đã dùng chủ
ngữ này (3,2) để nói về uy tín của
người Do Thái có học thức.
- Anh hãy tôn vinh Thiên Chúa (24): Đây là mộtcông thức
để thề trước khi làm chứng hoặc thú
nhận mộtlỗi lầm (x. Gs 7,19). Nhưng cũng
rất có thể tác giả muốn chơi chữ, bởi
vì anh mù sẽ tôn vinh Thiên Chúa.
- Thiên Chúa đã nói
với ông Môsê (29):
Xem Xh 33,11; Ds 12,2-8.
- Chúng ta biết (30): Anh mù dùng chủ ngữ “chúng
ta” của người Pharisêu (c. 24), y như Đức
Giêsu ở 3,11 đã lấy lại chủ ngữ “chúng
ta/tôi” của Nicôđêmô. Rõ ràng những đoạn này
được dùng trong những cuộc bút chiến
giữa người Do Thái và các Kitô hữu.
- Thiên Chúa không nhậm
lời những kẻ tội lỗi (31): Đây là mộtnguyên tắc
Kinh Thánh quen thuộc (x. Is 1,15; 1 Ga 3,21).
- họ tống anh ra
ngoài (34): Đây
không phải là mộtviệc dứt phép thông công đúng
nghĩa, nhưng chỉ là việc đuổi anh cho
khuất mắt họ.
- Khi gặp lại anh (35): Hành vi này ngược lại
với hành vi của người Pharisêu khi đuổi anh
ra ngoài, và minh họa cho lời hứa của Đức
Giêsu ở 6,37: “Ai đến với tôi, tôi sẽ không
loại ra ngoài”.
4.- Ý nghĩa của bản văn
Trong TM IV,
truyện anh mù được chữa lành có mộtvị
trí trung tâm. Truyện này giống như mộttổng
hợp về sứ mạng làm ánh sáng của Đức
Giêsu trong thế gian và về cuộc xung đột
giữa ánh sáng và bóng tối xảy ra giữa Đức
Giêsu và người Do Thái. Bản văn đã
được trình bày như mộtcuộc xử án,
nhưng Đức Giêsu không trực tiếp đối
đầu với các đối thủ. Bản án của
Người chỉ được xác định qua
việc kết án anh mù; Đức Giêsu chỉ xuất
hiện lúc đầu để thực hiện “dấu
lạ”
và xác định ý nghĩa của “dấu lạ”, rồi
xuất hiện ở cuối để uy nghi công bố
bản án.
* Đức Giêsu và các
môn đệ đối diện với anh mù (1-5)
Không ai xin
Đức Giêsu chữa cho anh mù: chính Người bột
phát chữa lành anh (9,1-7). Nghĩ đến số phận
đáng thương của anh mù, các môn đệ nại
đến mộtluận điểm quen thuộc trong dân
Do Thái: Tại sao anh bị như thế? Do lỗi của
ai? Các ông tìm cách quy kết trách nhiệm. Các ông nghĩ đến
mộtlỗi chống lại Thiên Chúa. Nhưng Đức
Giêsu loại bỏ lối suy luận này. Sau này bản
văn sẽ cho thấy tội lỗi thật chống
lại Thiên Chúa là tội lỗi gì và nó đưa
đến sự đui mù nào. Còn đối với
người mù bẩm sinh, Đức Giêsu không nhìn lại
đàng sau, Người nhìn tới trước: nhờ anh,
Người có thể tỏ mình ra rõ ràng là ánh sáng thế
gian. Cho ai đang ngạc nhiên về sự thiếu may
mắn của anh mù, lòng thương xót và quyền lực
của Thiên Chúa lại được tỏ lộ. Như
thế, Đức Giêsu cho thấy ý nghĩa của
những việc Người làm.
* Đức Giêsu
chữa lành anh mù
(6-7)
Khác với
những hành vi quyền lực khác của Người,
ở đây Đức Giêsu không chỉ hành động
bằng lời nói của Người. Tác giả mô tả
chi tiết những gì Người làm cho anh mù (9,6.11.14.15).
Và cả anh này cũng phải làm mộtviệc: Tin vào
lời Đức Giêsu, anh đi đến hồ
nước rửa mắt và thấy được. “Silôác
có nghĩa là: người được sai phái” (c. 7):
Đức Giêsu chính là Đấng được Chúa Cha sai
phái; chính là nước của Người, thứ
nước đã hứa ban cho người phụ nữ
Samari, mới chữa khỏi đui mù. Đức Giêsu không
có mặt trong bốn cuộc gặp gỡ sau đó,
nhưng tất cả đều xoay quanh những gì
Người đã làm cho anh mù và về tương quan
của Người với Thiên Chúa. Chính là qua các cuộc
tranh luận này mà người lành bệnh được
dẫn từng bước mộtđến chỗ
thấy ai là người đã chữa lành anh. Các con
mắt mà Đức Giêsu đã mở cho anh để anh
thấy ánh nắng mặt trời, bây giờ lại
mở ra để thấy “ánh sáng cho trần gian”.
* Cuộc xử án (8-34a)
Trong cuộc
gặp gỡ với những người láng giềng (cc.
8-12), có một toan tính đầu tiên là giữ khoảng
cách với sự thật quá hiển nhiên về cuộc
chữa lành và tránh lấy lập trường đối
với chuyện này. Người ta nghi ngờ về
căn cước của người được
chữa lành: không chắc chắn kẻ đang thấy
đây là người mù từ lúc mới sinh lâu nay vẫn
phải sống bằng việc hành khất, mà ai cũng
biết. Tuy nhiên, anh khẳng định căn cước
của anh và nói rõ ràng về những gì Đức Giêsu
đã làm cho anh.
Khi ra trình
diện người Pharisêu, anh lại phải mô tả
những gì Đức Giêsu đã làm cho anh và cách thức anh
lại thấy được (cc. 13-17). Họ tỏ ra khó
chịu vì Đức Giêsu đã làm việc ấy trong ngày
sa-bát, và thế là nêu lên câu hỏi, từ bây giờ sẽ
là vấn đề nổi bật, về tương quan
của Người với Thiên Chúa. Có những
người coi quan niệm của họ về ngày sa-bát là
tiêu chuẩn đánh giá duy nhất, nên cho rằng
Đức Giêsu không thể đến từ Thiên Chúa.
Những người khác nhìn nhận rằng việc
chữa lành này là đặc biệt và không thể cho
rằng Đức Giêsu là mộtngười tội
lỗi. Bây giờ chính người được lành
cũng bị buộc phải lấy lập trường:
anh nhìn nhận Đức Giêsu là mộtngôn sứ,
mộtngười được Thiên Chúa sai phái.
Mẩu
đối thoại giữa người Do Thái và cha mẹ
anh (cc. 18-23) đưa vào mộttoan tính khác nhằm giữ
khoảng cách đối với sự thật. Bây giờ
người ta nghi ngờ về tình trạng mù lòa
trước đây của anh. Cha mẹ anh công nhận
căn cước của anh và tình trạng mù lòa của anh
từ khi mới chào đời, nhưng không muốn
biết gì về việc chữa lành. Họ cúi đầu
sợ hãi trước áp lực của quyền bính. Họ
không muốn bị cô lập về mặt xã hội; do
đó họ nhắm mắt lại trước ánh sáng.
Cuộc
đối diện thứ hai của anh được lành
với người Pharisêu (cc. 24-34a) đã phân rẽ các tâm
trí. Sau khi mọi lý do đã bị loại bỏ và việc
chữa lành đã được xác nhận, người
ta không thể tránh khỏi việc lấy lập
trường đối với người đã làm
việc này. Người Pharisêu chỉ quan tâm tới “cách thức”
chữa lành (x. cc. 15.19.26). Và bởi vì cách thức này vi
phạm quan niệm của họ về ngày sa-bát, họ
biết chắc chắn rằng Đức Giêsu là
mộtkẻ tội lỗi. Lỗi mà Đức Giêsu
đã phạm không phải là một lệnh truyền cho
người được chữa lành, nhưng là hành
động chính Người đã làm: “nhổ nước
miếng xuống đất, trộn thành bùn và xức vào
mắt người mù” vào ngày sa-bát (c. 6). Một
trường hợp như thế đã được
minh nhiên tranh luận trong sách Talmud Babylon (x. Strack-Billerbeck II
533t). Thật ra, các kinh sư cho phép, trong ngày sa-bát,
được chữa con mắt bị bệnh trong trường
hợp cấp tính, chứ không cho phép trong trường
hợp mãn tính, như trường hợp anh mù bẩm sinh
này. Ở đây “sự kiện” là việc chữa lành
đã thực sự xảy ra không hề có tầm quan
trọng nào đối với người Pharisêu. Nhưng
đây lại chính là điểm mà anh mù bám vững,
nhất định không nao núng (x. cc. 25.30.32). Khởi đi
từ hành vi Đức Giêsu đã làm, anh nhận ra càng lúc
càng rõ tương quan của Đức Giêsu với Thiên
Chúa. Đối lại với sự hiểu biết mà
người Pharisêu cho rằng họ có về Đức Giêsu
(cc. 24.29), anh đề ra sự hiểu biết của anh
về Thiên Chúa, mà cả người Pharisêu cũng phải
công nhận: “Chúng ta biết: Thiên Chúa không nhậm lời
những kẻ tội lỗi; còn ai kính sợ Thiên Chúa và
làm theo ý của Người, thì Người nhậm
lời kẻ ấy” (c. 31). Do không chấp nhận Đức
Giêsu, người Pharisêu cứ thắc mắc, nên đã
phải nghe giọng mỉa mai của anh mù: “Tôi đã nói
với các ông rồi mà các ông không nghe. Tại sao các ông
lại còn muốn nghe nữa? Chẳng lẽ các ông cũng
muốn làm môn đệ ông ấy sao?” (c. 27). Từ hành vi
phi thường Đức Giêsu đã làm và từ sự
hiểu biết này về Thiên Chúa, anh rút ra hệ luận
là Đức Giêsu không phải là mộtkẻ tội
lỗi, nhưng là mộtngười làm theo ý muốn
của Thiên Chúa và đến từ Thiên Chúa.
Ở đây,
chúng ta có một ví dụ tiêu biểu về thái độ
tích cực và tiêu cực khi đứng trước
mộthành vi quyền lực Đức Giêsu đã thực
hiện. Anh mù được lành không chỉ xử sự
như mộtngười sung sướng vì có thể
thấy và không quan tâm gì đến người đã
chữa anh lành. Ngược lại, đối với anh,
việc chữa lành thật sự đã trở thành
mộtdấu chỉ đưa anh đến chỗ
nhận biết dây liên kết giữa Thiên Chúa và
Đức Giêsu. Người Pharisêu vẫn ở lại
trong thái độ không muốn thấy và cứng lòng
lại trong việc từ khước Đức Giêsu.
Đối với những sự kiện cụ thể
được anh mù nêu ra, họ chỉ có thể chống
lại bằng cử chỉ bạo lực là tống anh
ra ngoài. Tình thế của họ có nét mỉa mai đầy
kịch tính (x. cc. 24 và 40): Trong c. 24, khi mời anh mù nói lên
sự thật dưới cái nhìn của Thiên Chúa (“Hãy tôn
vinh Thiên Chúa. Chúng ta đây biết rằng ông ấy là
kẻ tội lỗi”), người Pharisêu hẳn lại
phải bảo vệ điều ngược lại
với những gì họ biết: chữa lành một
người mù không phải là dấu chỉ tội
lỗi. Trong c. 40 (“Cả chúng tôi cũng đui mù hay sao?”),
họ phải thú nhận cách bi đát điều hiển
nhiên: loại trừ kẻ đã chữa người mù
chứng tỏ chính họ đang mù.
* Tuyên án (34b-41)
Cuộc gặp
gỡ thứ hai giữa anh được lành và
Đức Giêsu (cc. 35-38) xảy ra lần nữa vẫn do
sáng kiến của Người. Đức Giêsu quan tâm
đến người đã bị tống ra ngoài và giúp
anh có thể thấy thêm nữa, bằng cách đưa anh
đến chỗ tin vào Con Thiên Chúa. Nhờ cuộc tranh
luận trước đó, càng ngày anh càng đến
gần Đức Giêsu hơn và ngày càng mở ra hơn
với tương quan của Đức Giêsu với Thiên
Chúa. Bây giờ Người tự mạc khải ra cho anh
là người bị loại trừ biết Người
là Con Thiên Chúa nhập thể, Người không đến
thế gian trong ánh vinh quang huy hoàng, nhưng trong tình
trạng đơn giản của thân phận con
người và đi đến chỗ sẽ
được giương cao trên thập giá (3,14; 6,35;
12,23.34). Anh mù được lành đã tin và quỳ
xuống trước mặt Người, tức là làm mộtcử
chỉ thờ phượng Thiên Chúa. Anh đã có thể
thấy trọn vẹn phẩm cách và tầm quan trọng
của Đức Giêsu. Khi chữa lành anh và hướng
dẫn anh, Đức Giêsu đã ngày càng trở thành ánh sáng
cho anh.
Cuối cùng,
xảy ra cuộc đối đầu giữa Đức
Giêsu và người Pharisêu (cc. 39-41). Các ông này đã phản
ứng lại với mộtkhẳng định của Người
về mộtphương diện quan trọng trong sứ
mạng của Người: Người đã đến
để cứu độ thế giới (3,17; 12,47);
Người ở trong thế gian như là ánh sáng ban sự
sống. Do Đức Giêsu không xuất hiện với mộtquyền
lực to lớn, sự hiện diện của
Người làm cho loài người chia rẽ nhau. Có
những người đón nhận Người và chấp
nhận sự trợ giúp của Người,
được Người mở mắt và đi
đến chỗ nhận biết thực tại trọn
vẹn. Có những người khác lại loại trừ
Người, nghĩ rằng họ đã biết mọi
sự không cần Người và thế là họ thành
đui mù thật sự. Khi mà thực tại đã trở
nên ngày càng thấy rõ được, sự đui mù của
những người ấy càng trầm trọng.
Người Pharisêu muốn biết phải chăng
điều này cũng đúng đối với họ.
Họ đã xác định Đức Giêsu là một “kẻ
tội lỗi” (9,24); bây giờ lại chính là Người
đang mô tả lối xử sự của họ, mà
gọi là “tội lỗi”, là thiếu sót đối với
Thiên Chúa.
+ Kết luận
Đức Giêsu
là ánh sáng cho trần gian trong tư cách là bao lâu Người
còn ở trần gian, Người thực hiện những
việc Chúa Cha giao phó cho Người (9,4-5). Người
không phải là mộtánh sáng được áp đặt
cho bất cứ ai không phân biệt. Điều ghi nhận
được với người mù từ thuở
mới sinh là nhờ Người, có những người
trở thành thấy được và có những
người lại trở nên đui mù (c. 39). Qua bảy
cuộc gặp gỡ, trong đó Đức Giêsu chỉ có
mặt ở lần đầu và hai lần cuối, ta
thấy diễn ra mộttình huống đầy kịch
tính và phong phú hậu quả. Từ việc chữa lành anh
mù, từ những cuộc tranh luận với những
người xung quanh Đức Giêsu và từ lời
mạc khải về Đức Giêsu, người mù
được dẫn đến chỗ thấy
được hoàn toàn, tin và thờ phượng
Đức Giêsu. Các đối thủ chỉ thấy Đức
Giêsu là mộtngười tội lỗi, đã vi phạm
Lề Luật và chống lại ý muốn của Thiên Chúa.
Những gì Đức Giêsu đã làm và qua đó lòng từ bi
thương xót của Thiên Chúa được tỏ bày ra,
đối với họ, lại là mộtcông trình chống
lại Thiên Chúa. Ánh sáng làm cho người ta thấy Thiên
Chúa, thấy Đấng Thiên Chúa sai phái và lễ dâng của
Đấng ấy để cứu độ thế
giới, lại làm cho mọi sự ra tối tăm
đối với họ. Chỉ ai mở ra, ai chấp
nhận được giáo huấn và hướng dẫn,
mới có thể gặp Đức Giêsu và nhận
được ánh sáng ban ơn cứu độ.
Như thế,
chẳng phải là anh mù bẩm sinh hay cha mẹ anh ta là
những người tội lỗi (x. c. 2t), nhưng
những kẻ từ chối tin Đức Giêsu mới có
tội (c. 40t). Một lần nữa, TM IV vượt xa
hơn những tranh luận halakha (Midrash halakha là những lời giải thích các bản
văn Kinh Thánh liên quan đến các bản văn luật
pháp. Các Rabbi giải thích các khoản Luật ghi chép trong Kinh
Thánh để dân chúng có thể áp dụng vào cuộc
sống thường nhật. Mỗi thời đại có
hoàn cảnh sống khác nhau, vì thế các khoản luật
cần được giải thích và thích nghi với hoàn
cảnh mới) liên hệ đến luật sa-bát,
để đưa độc giả đến chỗ
chọn đứng về phía Đức Giêsu, Đấng
được Chúa Cha sai đến, hay là chống lại
Người.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Hôm nay chúng ta có thể tự
hỏi về thái độ của chúng ta khi đứng
trước đau khổ của người khác. Chúng ta
có tự hỏi là vì sao và do đâu mà có đau khổ này,
hoặc mục đích của nỗi đau khổ này là gì
chăng? Nhất là chúng ta có biết nhìn sự đau
khổ của người khác như Đức Giêsu đã
nhìn chăng? Không nên kết luận rằng những
người phải khốn khổ là nạn nhân của
mộtsố phận mù quáng. Một Kitô hữu chân chính
không được nghĩ rằng Thiên Chúa trừng
phạt người ta. Sớm hay muộn, Thiên Chúa sẽ
làm rạng tỏ nơi họ quyền năng và lòng
thương xót của Ngài (x. Rm 8,28).
2. Con đường anh mù đã
rảo qua cho chúng ta hiểu cách thức Đức Giêsu hành
động trong tư cách là “ánh sáng cho trần gian”.
Người không chỉ hiện diện trên mặt
đất, Người còn đi gặp loài người,
chữa lành họ và dẫn họ đi tới, để
họ thấy càng ngày càng rõ hơn là Người từ
đâu đến và Người là ai. Dù sao, chúng ta cũng
biết rằng không phải chính chúng ta sẽ bảo cho
Đức Giêsu biết phải sống thế nào và
phải làm gì. Chúng ta cần phải để cho
Người chỉ cho biết Người là ai và
Người muốn mang đến cho chúng ta điều
gì.
3. Anh mù đã càng lúc càng hiểu rõ
hơn việc anh được lành. Hôm nay tôi có thể tìm
hiểu xem kinh nghiệm nào đã là khởi điểm
để tôi hiểu Đức Giêsu ngày càng sâu xa hơn.
Cần phải nhớ lại kinh nghiệm anh mù đã trải
qua. Vì nhìn nhận Đức Giêsu là Đấng Thiên Chúa sai
phái, anh bị tống ra ngoài cộng đoàn; người
ta đuổi anh như đuổi mộtkẻ tội
lỗi. Cả cha mẹ anh cũng từ chối bảo
vệ anh. Khi đó, niềm tin đưa đến
hậu quả là sự cô đơn. Phải vượt
lên trên nỗi sợ hãi, sự cả nể, mối
bận tâm đến ý kiến của người
đời, để có thể sống độc lập,
và đi đến tự do chân chính.
4. Con người vừa là ánh sáng
vừa là bóng tối. Con người có khả năng
tự làm mình ra đui mù, đưa ra những lý do
để khỏi thấy, tạo ra cho mình những xác tín
giả trá, từ chối mở mắt ra, mà lại nói là
mình “đang thấy”. Ánh sáng rất đòi hỏi: nó
bắt ta xét lại nhiều chuyện, từ bỏ nhiều
thói quen, đôi khi phải đoạn tuyệt với
cả mộtmôi trường. Bị đui mù mà biết
nhìn nhận mình thiếu ánh sáng và không thấy, thì không
phải là mộttội; nhưng tự hào là mình biết
tất cả về Thiên Chúa và về thế giới và
từ chối ánh sáng đến từ Thiên Chúa,
điều này đi ngược lại ý muốn của
Thiên Chúa, nên là một tội.
|