HIỆP SỐNG TIN
MỪNG
CHÚA NHẬT 4 MÙA CHAY
A
1 Sm 16,1b.6-7.10-13a ; Ep
5,8-14 ; Ga 9,1-41
THẦY LÀ ÁNH SÁNG THẾ GIAN
I.
HỌC LỜI CHÚA
1. TIN
MỪNG: Ga 9,1-41
(1)
Đi ngang qua, Đức Giê-su nhìn thấy một
người mù từ thuở mới
sinh. (2) Các môn đệ hỏi Người:
“Thưa Thầy, ai đã phạm tội khiến
người này sinh ra đã bị mù. Anh ta
hay cha mẹ anh ta ?” (3) Đức Giê-su trả
lời: “Không phải anh ta, cũng chẳng
phải cha mẹ anh ta phạm tội. Nhưng chuyện
đó xảy ra là để các việc
của Thiên Chúa được tỏ hiện
nơi anh. (4) Chúng ta phải làm những
việc của Đấng đã sai Thầy, khi
trời còn sáng. Đêm đến, không ai
có thể làm việc được. (5) Bao lâu
Thầy còn ở thế gian, Thầy là ánh
sáng thế gian”. (6) Nói xong, Đức Giê-su
nhổ nước miếng xuống đất,
trộn thành bùn và xức vào
mắt người mù. (7) Rồi bảo anh ta:
“Anh hãy đến hồ Si-lô-ác mà rửa”
(Si-lô-ác có nghĩa là: Người
được sai phái). Vậy anh ta đến
rửa ở hồ, và khi về thì nhìn
thấy được. (8) Các người
láng giềng và những kẻ trước
kia thường thấy anh ta ăn xin mới
nói: “Hắn không phải là người
vẫn ngồi ăn xin đó sao ?” (9) Có
người nói: “Chính hắn đó !”
Kẻ khác lại rằng: “Không phải đâu !
Nhưng là một đứa nào giống
hắn đó thôi”. Còn anh ta thì quả
quyết: “Chính tôi đây !” (10) Người ta
liền hỏi anh: “Vậy làm sao mắt anh lại
mở ra được như thế ? ”. (11) Anh ta
trả lời: “Người tên là Giê-su
đã trộn một chút bùn, xức
vào mắt tôi, rồi bảo: “Anh hãy
đền hồ Si-lô-ác mà rửa”. Tôi
đã đi, và sau khi rửa tôi nhìn
thấy được”. (12) Họ hỏi anh: “Ông
ấy ở đâu ?” Anh ta đáp: “Tôi không
biết”. (13) Họ dẫn kẻ trước đây
bị mù đến với những
người Pha-ri-sêu. (14) Nhưng ngày
Đức Giê-su trộn chút bùn và làm
cho mắt anh ta mở ra lại là ngày Sa-bát.
(15) Vậy, các người Pha-ri-sêu hỏi thêm
một lần nữa làm sao anh nhìn thấy
được. Anh trả lời: “Ông ấy
lấy bùn thoa vào mắt tôi, tôi rửa
và tôi nhìn thấy”. (16) Trong nhóm Pha-ri-sêu,
người thì nói: “Ông ta không thể là
người của Thiên Chúa được,
vì không giữ ngày sa-bát”; Kẻ thì
bảo “Một người tội lỗi sao có
thể làm được những dấu
lạ như vậy ?” Thế là họ đâm ra chia
rẽ. (17) Họ lại hỏi người mù:
“Còn anh, anh nghĩ gì về người
đã mở mắt cho anh ?” Anh đáp:
“Người là một vị Ngôn sứ !”. (18)
Người Do thái không tin là trước
đây anh bị mù nay nhìn thấy
được, nên đã gọi cha mẹ anh ta
đến. (19) Họ hỏi: “Anh này có phải
là con ông bà không ? Ông bà nói là anh bị
mù từ khi mới sinh, vậy sao bây
giờ anh lại nhìn thấy được ?”.
(20) Cha mẹ anh đáp:
“Chúng tôi biết nó là con chúng tôi, nó
bị mù từ khi mới sinh. (21) Còn bây
giờ làm sao nó thấy được,
chúng tôi không biết, hoặc có ai đã
mở mắt cho nó, chúng tôi cũng chẳng
hay. Xin các ông cứ hỏi nó. Nó đã
khôn lớn rồi, tự nó, nó nói
về mình được”. (22) Cha mẹ anh nói
thế vì sợ người Do thái.
Thật vậy, người Do thái đã
đồng lòng trục xuất khỏi hội
đường kẻ nào dám tuyên xưng
Đức Giê-su là Đấng Ki-tô. (23) Vì
thế, cha mẹ anh mới nói: “Nó đã
khôn lớn rồi, xin các ông cứ hỏi
nó”. (24) Một lần nữa, họ gọi
người trước đây bị mù
đến và bảo: Anh hãy tôn vinh Thiên Chúa.
Chúng ta đây, chúng ta biết ông ấy là
người tội lỗi”. (25) Anh ta đáp: “Ông
ấy có phải là người tội lỗi
hay không, tôi không biết. Tôi chỉ biết một
điều: Trước đây tôi bị mù, mà
nay tôi nhìn thấy được !” (26) Họ
mới nói với anh: “Ông ấy đã
làm gì cho anh ? Ông ấy đã mở
mắt cho anh thế nào ?” (27) Anh trả lời:
“Tôi đã nói với các ông rồi mà
các ông vẫn không chịu nghe. Tại sao các ông
còn muốn nghe lại chuyện đó nữa ?
Hay các ông cũng muốn làm môn đệ ông
ấy chăng ?” (28) Họ liền mắng nhiếc anh:
“Có mày mới là môn đệ của ông
ấy. Còn chúng ta, chúng ta là môn đệ
của ông Mô-sê. (29) Chúng ta biết rằng Thiên
Chúa đã nói với ông Mô-sê. Nhưng
chúng ta không biết ông ấy bởi đâu mà
đến”. (30) Anh đáp: ”Kể cũng lạ
thật ! Các ông không biết ông ấy bởi
đâu mà đến, thế mà ông ấy lại
là người đã mở mắt tôi !
(31) Chúng ta biết: Thiên Chúa không nhậm
lời những kẻ tội lỗi. Còn ai
kính sợ Thiên Chúa và làm theo ý
của Người, thì Người nhậm
lời kẻ ấy. (32) Xưa nay chưa hề nghe
nói có ai đã mở mắt cho
người mù từ lúc mới sinh.
(33) Nếu không phải là người bởi
Thiên Chúa mà đến, thì ông ta đã
chẳng làm được gì”. (34) Họ
đối lại: “Mày sinh ra tội lỗi ngập
đầu, thế mà mày lại muốn làm
thầy chúng ta ư ? ” Rồi họ trục xuất
anh. (35) Đức Giê-su nghe nói họ đã
trục xuất anh, và khi gặp lại anh,
Người hỏi: “Anh có tin vào Con
Người không ?”. (36) Anh đáp: “Thưa Ngài,
Đấng ấy là ai để tôi tin ?” (37)
Đức Giê-su trả lời: “Anh đã
thấy Người. Chính Người đang
nói với anh đây”. (38) Anh nói: “Thưa
Ngài, tôi tin”. Rồi anh sấp mình xuống
trước mặt Người. (39)
Đức Giê-su nói:"Tôi đến thế gian
này chính là để xét xử: cho
người không xem thấy được
thấy, và kẻ xem thấy lại nên đui mù !".
(40) Những người Pha-ri-sêu đang ở
đó với Đức Giê-su nghe vậy,
liền lên tiếng: “Thế ra cả chúng tôi cũng
đui mù hay sao ?” (41) Đức Giê-su bảo họ:
“Nếu các ông đui mù, thì các ông
đã chẳng có tội. Nhưng giờ
đây các ông nói rằng: “Chúng tôi thấy,
nên tội các ông vẫn còn !”.
2. Ý
CHÍNH:
Câu chuyện Đức Giê-su
chữa cho người mù từ khi
mới sinh cho thấy: Đức Giê-su chính
là Ánh Sáng Thế Gian, và chỉ
những ai có lòng khiêm hạ mới
đón nhận được ánh sáng
ấy. Trong cuộc đối thoại, anh mù
đã từng bước hiểu biết
về Người: Từ "một
người tên là Giê-su” (11) đến “một
vị Ngôn sứ !” (17), rồi “Người
bởi Thiên Chúa mà đến” (33). Cuối
cùng là “Con Người” (35), là Tôi Trung của
Thiên Chúa và là Đấng Thiên Sai, thì anh
mù đã tuyên xưng: “Thưa Ngài, tôi tin”
và sấp mình trước mặt
Người (37). Quả thật, chỉ những ai
thực tâm muốn tìm Chúa mới gặp được
Người.
3.
CHÚ THÍCH:
- C 1-5: + Ai đã phạm tội
khiến người này sinh ra đã bị
mù: Cựu
Ước thường cho rằng: tai nạn,
bệnh tật và đau khổ là hình phạt
do tội lỗi của tội nhân (x. St 3,3) hay tội
của cha ông người ấy (x. Xh 20,5). Chính
Đức Giê-su có lần cũng chia sẻ tư
tưởng ấy: “Này, anh đã
được khỏi bệnh. Đừng
phạm tội nữa, kẻo lại phải khốn
hơn trước!” (Ga 5,14). + Là để
các việc của Thiên Chúa được
tỏ hiện nơi anh: Ở đây
Đức Giê-su còn coi bệnh tật như
một tai họa mà con người phải
chịu đựng, như một quyền lực
của Sa-tan đang đè trên con người
mà Đức Giê-su đến nhằm giải thoát
cho họ (x. Lc 13,16).
- C 6-9: + Đức Giê-su nhổ
nước miếng xuống đất, trộn
thành bùn và xức vào mắt
người mù:
Theo các nhà chú giải Kinh Thánh: Đức
Giê-su làm như vậy để thử thách
đức tin của người mù. + Anh
hãy đến hồ Si-lô-ác mà rửa:
Si-lô-ác có nghĩa là “Được sai
đến”. Như nước hồ của
“Người được sai phái” đã
cho người mù từ thuở mới
sinh nhìn thấy thế nào, thì “Đấng
Được Sai” cũng ban ánh sáng cho những ai
đang ngồi trong bóng tối tội lỗi và
sự chết như vậy.
- C 35-41:
+Anh có tin vào Con
Người không? :
Sau khi mở con mắt thể xác để anh
mù được nhìn thấy, Đức Giê-su
cũng muốn mở mắt đức tin cho
anh. Vì thế Người đặt câu hỏi
để khơi dậy niềm tin như Người
đã từng làm đối với
người phụ nữ Sa-ma-ri (x. Ga 4,26). + Tôi
đến thế gian này chính là để
xét xử: Xét xử không phải là lên
án (x. Ga 3,17), nhưng là như ánh sáng chiếu
soi để tỏ cho thấy những điều
thầm kín trong lòng người ta (x. Ga 3,19-21).
+
Cho người không xem thấy được
thấy và kẻ xem thấy lại nên đui mù:
Câu này tương tự lời cầu
nguyện của Đức Giê-su với Chúa Cha:
“Con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không
cho bậc khôn ngoan thông thái biết những
điều này, nhưng lại mặc khải cho
những người bé mọn” (x. Mt 11,25). Chỉ
những ai khiêm tốn và thành tâm đón nhận đức
tin mới được nhìn thấy ơn cứu
độ.
4. CÂU
HỎI:
1)
Đối với các tín hữu, bệnh
tật có phải do tội lỗi gây ra không ? 2)
Việc Đức Giê-su lấy bùn thoa vào
mắt người mù để chữa
bệnh mang ý nghĩa thế nào ? 3) Tại sao
Đức Giê-su lại ra lệnh cho anh mù
đến rửa mắt tại hồ Si-lô-ác ?
4) Tại sao Đức Giê-su lại nói: "Cho
người không xem thấy được thấy
và kẻ xem thấy lại nên đui mù" ?
II. SỐNG LỜI CHÚA
1.
LỜI CHÚA: Đức Giê-su nói: “Tôi
đến thế gian này chính là để
xét xử: cho người không xem thấy
được thấy, và kẻ xem thấy
lại nên đui mù !” (Ga 9,39).
2. CÂU
CHUYỆN:
1) ĐÂU LÀ LÚC TRỜI
SẮP SÁNG ?
Một vị ẩn sĩ hỏi
các đồ đệ rằng: “Đâu là
lúc đêm sắp tàn và ngày sắp
đến ?” Nhiều câu trả lời của các
học trò được nêu ra: Kẻ thì cho
rằng đó là lúc ta có thể phân
biệt từ xa một cây dừa với
một cây cau. Người khác cho rằng
đó là lúc ta có thể phân biệt
được một con bò với một con
trâu… Đáp án đúng nhất mà vị
ẩn sĩ muốn dạy các đồ đệ
như sau: “Đó là khi ta nhìn người
khác và nhận ra họ là anh em của ta”. (Anthony
de Mello).
2) NHÌN NGOẠI VẬT THEO LĂNG KÍNH
BẢN THÂN:
Một vị Nhật hoàng sau khi làm
việc căng thẳng muốn thư giãn, nên yêu cầu
các quan tìm kiếm một người biết nói đùa.
Người ta đã dẫn đến cho vua một
thiền sư.
Nhật
hoàng nói: “Ta muốn nhà ngươi nói đùa cho ta nghe và sẽ
không bị hài tội về lời nói đùa”. Thiền
sư nói: “Tâu bệ hạ, xin bệ hạ nói trước
để hạ thần nói đùa theo”. Nhà vua nói: “Ta
thấy nhà ngươi giống y như một con lợn!”
Thiền sư đáp: “Còn hạ thần thì nhìn thấy
bệ hạ giống y như Đức Phật!” – Nhà vua
liền thắc mắc: “Tại sao ta bảo nhà
ngươi là con lợn mà nhà ngươi lại bảo ta
là Đức Phật?”- “Tâu bệ hạ, dễ hiểu thôi
ạ: ai có tâm của Phật thì nhìn đâu cũng thấy
Đức Phật; Còn ai có tâm của lợn thì nhìn đâu
cũng thấy lợn!”
3) ĐỪNG SOI MÓI KHÍCH BÁC THA NHÂN:
Có một đôi vợ chồng kia rủ
nhau đi xem một cửa hàng nổi tiếng chuyên
trưng bày tranh thêu lụa. Vừa bước vào
đến cửa, bà vợ liền nhìn vào bên trong cửa
hàng và nêu nhận xét nhằm chê bai cửa hàng: "Tranh thêu gì
đâu mà xấu tệ! Như mặt người đàn bà
trong bức tranh kia chẳng giống ai!". Ông chồng
vội liền bịt miệng vợ và nói: "Đó không
phải là tranh thêu đâu, mà là tấm gương soi đó.
Hình người phụ nữ bà thấy kia chính là hình của
bà phản chiếu trong tấm gương đó ! Tốt
nhất là bà hãy giữ im lặng dùm chứ đừng lên
tiếng phê phán cách hồ đồ!". Bà vợ cảm thấy
xấu hổ nên đã vội bỏ về ngay sau đó.
Câu chuyện trên cho thấy thói xấu
của nhiều người trong chúng ta: Tuy sáng mắt
nhưng lại có tâm hồn mù tối. Nhiều khi chúng ta phê
phán người khác mà không ngờ đã tự lộ ra chân
tướng không tốt của mình, như người ta thường
nói: "Chân mình những lấm bê bê. Lại cầm bó
đuốc mà rê chân người".
4) VIỆC NGƯỜI THÌ SÁNG, VIỆC
MÌNH THÌ QUÁNG:
Có một học giả rất thông
thái nhưng lại mắc bệnh đãng trí. Một hôm ông
cỡi lừa đi thăm một ông bạn thân. Dù đang
ngồi trên lưng lừa, nhưng ông vẫn tranh thủ
đọc sách thánh hiền và buông lỏng dây cương. Con
lừa sau khi đi được một đoạn
đường đã theo đường cũ quay trở
lại ngôi nhà của ông. Thấy lừa dừng lại, ông
học giả tưởng đã đến nhà bạn,
liền xuống lừa và đi chung quanh quan sát một vòng
ngôi nhà. Ông nói lời phê bình cốt để bạn ông trong
nhà nghe được: "Ông bạn già của ta sao lại
cẩu thả như thế này: Ngôi nhà đã bị
xuống cấp gần sập đến nơi mà chẳng
chịu lo sửa sang gì cả!". Vợ ông ở trong nhà
nghe vậy liền bước ra và nói: "Ông nhận xét
thật chính xác. Nhưng đây là nhà của ông đó !".
Trong cuộc sống, nhiều
người thường có nhận định sáng
suốt về chuyện của người khác, nhưng lại
mù mờ về những chuyện của chính mình như
người ta thường nói: “Việc người thì
sáng, mà việc mình thì quáng”. (Theo Ernst Wilhelm Nusselein).
5) NĂM ANH MÙ ĐI XEM VOI:
Ngày xưa ở Ấn độ, có
một ông vua muốn bày trò tiêu khiển, liền cho quân lính
đi kiếm năm người bị mù từ lúc mới
sinh đưa về triều đình làm trò tiêu khiển cho
triều thần. Vua truyền đưa đến một
con voi khổng lồ và bảo năm anh mù rằng: “Các
ngươi chưa hề biết voi là gì thì hôm nay trẫm
sẽ cho các ngươi biết. Các ngươi hãy lại gần
sờ vào voi rồi nói cho trẫm và quần thần
biết voi có hình thù ra sao. Ai tả con voi đúng nhất
sẽ được trọng thưởng”.
Anh mù thứ nhất sờ đúng cái chân
của voi liền tâu: “Tâu bệ hạ! Con voi có hình thù giống
như cột nhà!” Anh thứ hai sờ đúng cái tai voi
vội cãi: “Không đúng. Voi giống như một cái
quạt lớn”. Anh thứ ba sờ trúng cái vòi lại nói: “Voi
giống như một khúc cây ngoằn ngoèo!” Anh thứ tư sờ trúng
bụng voi cãi lại: “Voi giống một tảng đá
lớn, tròn tròn!” Tới lượt anh thứ năm
sờ trúng đuôi con voi thì cho cả bốn người kia
đều sai và tâu vua: «Voi chỉ như một cái chổi
cùn!”
Anh
nào cũng quyết liệt bảo vệ ý kiến của
mình là đúng, và bác bỏ ý kiến của các người kia.
Bn đầu họ còn nói nhỏ, về sau to tiếng và còn
xông vào đánh nhau chí chóe, đang khi nhà vua và triều thần
ai cũng cười cho sự mù quáng đáng thương
của cả bọn.
Mỗi
người mù nói trên chỉ biết được một
phần sự thật mà tưởng rằng mình am
tường tất cả và đánh giá những ai không suy
nghĩ giống như mình đều sai lạc. Giả
như họ biết khiêm tốn nhìn nhận kiến
thức hạn hẹp của mình và biết bổ sung
bằng ý kiến kẻ khác thì hay biết mấy.
3. SUY NIỆM:
1) Ai cũng cần có ánh sáng soi
đường:
Vào một đêm
nọ, có một người mù đến thăm một
người bạn cùng xóm. Lúc từ giã ra về, thấy
anh bạn mù không mang theo lồng đèn trên tay, chủ nhà liền
lấy ra chiếc lồng đèn của mình trao cho anh mù. Nhưng
anh mù từ chối và nói: “Đối với người
mù như tôi thì ban ngày cũng như ban đêm, ánh sáng có khác
gì bóng tối. Cho nên tôi sẽ không cầm theo chiếc
lồng đèn vì đó là làm một điều vô ích!
Bấy giờ chủ
nhà mới giải thích: « Tôi biết anh không cần đến
chiếc lồng đèn để soi đường.
Nhưng nếu anh không có nó trên tay thì người khác
sẽ không nhìn thấy anh và có thể họ sẽ
đụng chạm vào người anh đấy! » Anh
mù nghe bạn nói có lý nên đã nhận chiếc lồng đèn
ra về.
Đi được
một đoạn đường, bất ngờ anh mù
bị một người đi ngược chiều tông
vào suýt bị té. Anh ta liền tức giận la mắng:
« Bộ anh bị đui hả? Không thấy tôi đang cầm
chiếc lồng đèn trên tay sao? » Người kia liền
trả lời rằng: “Đúng là anh đang cầm một
chiếc lồng đèn đấy. Nhưng ngọn lửa
bên trong cây đèn đã tắt rồi. nên tôi không nhìn
thấy anh. Xin lỗi anh bạn nhé!”
Câu chuyện trên giúp
chúng ta hiểu được rằng: Để đi
trong bóng đêm ai cũng cần phải có ánh sáng. Ánh sáng
giúp người ta thấy đường đi, thấy
người khác và tránh được các trở lực trên
đường. Người mù đi trong đêm tối,
tưởng như không cần ánh sáng soi đường, nhưng
anh vẫn cần có cây đèn cháy sáng, để
người khác khỏi đụng phải anh.
2) Có
hai loại mù: Mù mắt thể xác và mù tối tâm hồn:
Người mù bẩm sinh trong Tin
Mừng hôm nay tuy bị mù đôi mắt thể xác nhưng
lại sáng lòng hơn những người Pharisêu tự hào
khôn ngoan thông thái. Người Pha-ri-sêu bị thành kiến
che mờ tâm trí nên không nhận ra Đức Giêsu là
Đấng cứu độ và đã tự loại mình ra
khỏi Nước Trời do Người thiết
lập.
Có nhiều bệnh mù quáng tâm hồn
như sau:
- Mù quáng do
lòng tham không đáy:
Sách Các Vua có thuật lại câu
chuyện hoàng hậu I-dơ-ven, vợ vua A-kháp, có lòng tham
lam muốn chiếm đoạt vườn nho của ông
lão nghèo Na-vốt, nên đã dàn dựng một vụ án để
tội Na-vốt đã nguyền rủa Thiên Chúa và nhà vua,
rồi tuyên án ông phải bị ném đá chết. Lòng tham
lam đã làm cho hoàng hậu I-dơ-ven trở thành mù quáng phạm
tội giết hại người nghèo vô tội
để chiếm đoạt vườn nho của ông ta.
(1 V Ch 21)
Mù quáng do
thói ganh tị:
Sách Samuel ghi lại rằng vua Sa-un
rất yêu thương Đavít, nhưng khi Đavít hạ
được tên tướng giặc khổng lồ là
Gô-li-át để cứu nguy cho quân dân Israel và khải hoàn trong
vinh quang. Bấy giờ các phụ nữ ca hát múa nhảy với
tiếng reo mừng não bạt và ca hát rằng: “Vua Sa-un
hạ được hàng ngàn, còn Đavít giết hàng
vạn”. Nghe lời đó, vua Sa-un tức giận vì anh
tị. Chính do lòng ganh tị đã làm cho vua trở thành mù
quáng, đổi lòng yêu thương hóa ra thù ghét và truy lùng
Đavít quyết giết cho bằng được người
anh hùng Đa-vít nầy. (1 Sm, Ch 18).
Mù quáng do
dục tình lấn lướt:
Sau khi Đavít lên làm vua thay Sa-un, ông
bị mê đắm sắc đẹp của bà Bát-sê-va.
Dục vọng đã làm cho vua bị mù quáng dẫn
đến chỗ phạm tội giết chồng đoạt
vợ (2 Sm, Ch 11).
Tóm lại, do tình dục, do lòng tham, thói
kiêu căng ganh tị… mà người ta có thể
trở nên mù tối phạm phải những tội ác không
ngờ. Bất cứ người mù nào cũng khao khát
được sáng; nhưng điều đáng tiếc là
nhiều người mù quáng tâm hồn do không ý thức mình đang
bị mù, nên không quyết tâm thoát khỏi tình trạng mù
quáng và cuối cùng bị loại ra khỏi nước
trời như các đầu mục dân Do thái xưa.
3) Hành trình đức tin
của người mù trong Tin Mừng:
Niềm tin của
người mù vào Đức Giê-su tăng dần theo sự
thử thách. Thử thách càng cao, đức tin càng mạnh:
Thoạt tiên, anh chỉ coi Chúa Giêsu là một người
nào đó khi nói: “Người tên là Giê-su
đã trộn một chút bùn, xức
vào mắt tôi, rồi bảo: “Anh hãy
đền hồ Si-lô-ác mà rửa”. Tôi đã
đi, và sau khi rửa tôi nhìn thấy
được” (Ga 9,11). Rồi
khi nghe đám đông bàn tán, và bị người Pharisêu tra
hỏi, anh đã nói lên suy nghĩ của mình: “Người
là một vị Ngôn sứ !” (Ga 9,17). Rồi trước sự
phê phán của các đầu mục, anh đã can đảm
bênh vực việc làm của Đức Giê-su: “Nếu
không phải là người bởi Thiên Chúa
mà đến, thì ông ta đã chẳng
làm được gì” (Ga 9,33). Cuối cùng sau khi gặp gỡ Đức
Giê-su và được mạc khải Người chính là
Con Người, là Đấng Thiên Sai (x. Ga 9,35-37), thì anh
mù đã tuyên xưng đức tin: “Thưa
Ngài, tôi tin”, và đã thể hiện niềm tin bằng
việc sấp mình xuống trước
mặt Người (Ga 9,38).
4)
Sống tinh thần Mùa Chay thế nào?:
- Theo Đức Giê-su thì mù
không phải là một cái tội. Cố tình
bịt tai nhắm mắt do sự cứng
lòng tin như các đầu mục Do thái mới là
tội. Nhiều khi chúng ta cũng có thái
độ giống như các người này khi
tự bịt tai nhắm mắt, cố tình
không nhìn nhận những khuyết điểm
lỗi lầm của mình. Mùa Chay là mùa
sám hối canh tân. Muốn biết mình ra sao,
chúng ta cần có thời gian tĩnh tâm để
hồi tâm sám hối và quyết tâm canh tân đời
sống.
- Ngoài ra, trong bất cứ
việc gì, chúng ta cần ý thức
mình chỉ nhìn thấy một phần sự
thật, nên phải khiêm tốn tìm hiểu và
học hỏi nơi tha nhân. Điều ta biết chỉ
là phần nổi nhỏ bé của tảng
băng. Còn những điều ta chưa biết
thì to lớn và chìm sâu dưới
mặt nước. Do đó, thay vì cãi
nhau khi có quan điểm và cái nhìn khác
nhau, chúng ta hãy khiêm tốn chấp nhận ý
kiến của người khác để
đạt tới chân lý.
- Cuối cùng, ta cần
lắng nghe và suy niệm Lời Chúa,
tiếp thu phê bình của người khác
để nhận ra con người thật của
mình, vì “Việc người thì sáng,
việc mình thì quáng!”, và “biết mình
biết người, trăm trận trăm
thắng !”. Khi nhận ra con người thật
của mình, chúng ta sẽ canh tân đổi mới
để ngày một nên hoàn thiện theo thánh ý Thiên Chúa.
4.
THẢO LUẬN:
Trong
Mùa Chay này, Bạn sẽ làm gì để
nhận ra con người thực của mình
và quyết tâm tu sửa các thói hư
tật xấu để ngày càng nên hoàn
thiện giống như Đức Giê-su hơn ?
5.
NGUYỆN CẦU:
LẠY CHÚA GIÊ-SU: hiện nay
còn biết bao người đang mù
chữ, mù kiến thức, mù giáo
lý… Nhất là đang bịt tai nhắm
mắt như người Pha-ri-sêu xưa. Trong
Mùa Chay này, xin cho chúng con biết dành
thì giờ tham dự những cuộc
tĩnh tâm để duyệt xét lại con
người của mình. Xin cho chúng con ngày
một hiểu biết Chúa để yêu mến
Chúa, biết rõ con để không dám tự
mãn và quyết tâm tu sửa các thói
hư tật xấu để ngày một nên hoàn
thiện giống Chúa nhiều hơn.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ)
XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
LM ĐAN VINH - HHTM
|