Xin mở mắt tâm hồn con
(Trích trong
‘Sống Tin Mừng’ – R. Veritas)
Quí ông bà, cô bác và anh chị em thân mến!
Có lẽ chúng ta không
còn cần câu chuyện nào khác để dẫn chứng cho
chúng ta đối với đoạn Phúc Âm hôm nay. Cuộc gặp
gỡ giữa Chúa Giêsu và người đàn bà xứ Samaria được mô
tả một cách thật là hay, với nhiều chi tiết
gợi ý và có thể thu hút sức chú ý
của chúng ta. Tác giả Phúc Âm không nhắc đến tên
của người đàn bà này, mà chúng ta có thể giả
thuyết là Chúa và các tông đồ, dĩ nhiên trong số
các tông đồ có cả tác giả Phúc Âm tức thánh Gioan,
biết tên người đàn bà này, vì Chúa đã lưu
lại nơi cộng đồng trong vùng hai ngày sau đó
để giảng dạy. Người đàn bà không
được nhắc đến tên, có lẽ vì hai lý do
sau đây:
-
Trước hết là sự tế
nhị không muốn nêu danh tánh của một người
đàn bà đã có năm đời chồng và hiện
đang sống với người không phải là chồng
của mình.
-
Lý do thứ hai quan trọng hơn, là vì
tác giả Phúc Âm thánh Gioan muốn trình bày nơi đây không
phải lịch sử cuộc đời của một
người đàn bà tội lỗi, nhưng
trình bày cho chúng ta có thể nói là con đường
đức tin của mỗi người chúng ta.
Nói cách khác, chúng ta
không cần biết danh tánh người đàn bà đó là
ai. Vì có thể nói, người đàn bà đó là
mỗi người chúng ta đây trước mặt Thiên
Chúa. Con đường đức tin của chúng ta,
chúng ta hãy quan sát xem người đàn bà này đã gặp
Chúa Giêsu như thế nào. Hay nói cách khác, Chúa Giêsu đã
gặp bà và hướng dẫn bà từ một thái
độ đối nghịch sang thái độ kính
trọng, cuối cùng tin nhận và làm chứng cho Chúa
như thế nào.
Trước hết,
dung mạo tinh thần của người đàn bà đó
là ai?
Mặc dù chúng ta không biết tên và không cần biết tên,
đây là người xứ Samaria, con cháu của
những người Do Thái mang dòng máu Adam. Chúng ta biết
vào năm 700 trước Chúa Giêsu sinh ra thì những
người Do Thái bị bắt đi lưu đày sang
Babilon và vùng đất Samari này được người
khác đến cư ngụ. Năm 500 trước Chúa Giêsu
sinh ra thì những người Do Thái được trở
về lập quốc và vùng đất Samari này là vùng
đất mà những người Do Thái sống với
những người ngoại quốc, họ lập gia
đình với nhau, cưới hỏi nhau. Từ đó
những người Samari này có thể nói là những
người Do Thái mang dòng máu lai người ngoại
quốc, không còn là Do Thái chính tông trong sạch như
những người Do Thái ở vùng Giuđêa, quanh thành
Giêrusalem và đền thờ Giêrusalem.
Đây là những người bị
người Do Thái coi như là kẻ thù theo cả hai
nghĩa, kẻ thù của dân tộc Do Thái đã kết thân
lập gia đình với những người ngoại
quốc, và cũng là kẻ thù coi thường Luật Chúa,
Luật Môsê, không xứng đáng lãnh nhận hồng ân
cứu rỗi của Thiên Chúa nữa. Hơn
thế nữa, người đàn bà đã có năm
đời chồng và đang sống với một
người không phải là chồng của mình.
Một người tội lỗi công khai, bị kẻ
khác xét xử như là kẻ ngoan cố trong tội
lỗi, vui lòng với tội lỗi của mình, mà theo quan điểm con người của
chúng ta thì có lẽ đây là trường hợp hết
thuốc chữa.
Người đàn bà Samari mà Chúa Giêsu gặp
không còn xứng đáng với ơn cứu rỗi của
Chúa, đó là nhìn theo quan điểm con
người chúng ta, nhưng không hẳn như vậy, vì
trong thâm tâm của bà vẫn còn có một thắc mắc,
một khát khao vượt ra khỏi tình trạng hiện
tại của mình. Chúng ta có thể ghi nhận bà còn một
chút hiểu biết giáo lý, còn đang mong chờ
Đấng Thiên Sai đến để ban ơn cứu
rỗi. Do đó bà đã hỏi Chúa Giêsu: "Chúng tôi
phải thờ Thiên Chúa ở đâu? Tại Giêrusalem hay trên
núi này? Tôi biết rằng Đấng Thiên Sai
sẽ đến để dạy cho chúng tôi mọi
sự". Đó là khao khát từ trong thâm tâm của
bà hướng về Đấng Cứu Rỗi, và hơn
nữa nơi con người bà còn có một điều
tốt là can đảm nói sự về cuộc đời
mình ra trước mặt Chúa. Bà đã dám nhìn
nhận tôi không có chồng, bà ý thức về tội
lỗi của mình, và có chút khao khát hướng về
sự giải thoát, về ơn cứu rỗi.
Chúa Giêsu đã hành
động như thế nào đối với bà? Chúa đến
với bà trước hết trong dung mạo của
người Do Thái, tức là kẻ thù của người
Samari. Chúa vượt qua hai định
kiến xấu đối với bà, người Samari và
người đàn bà. Người vùng
Samari như đã nói là những người Do Thái mang dòng
máu lai ngoại quốc, không còn trung thành, không còn là Do Thái
chính cống trong sạch với Luật Môsê nữa.
Một vị thầy của người Do
Thái không bao giờ nói chuyện với người đàn
bà nơi công cộng, nhưng Chúa Giêsu vượt qua hai
định kiến xấu này và khơi dậy thiện
cảm của người đàn bà khi mở miệng xin
nước uống: "Xin bà cho tôi nước
uống". Chúa tạo dịp cho người đàn bà làm
một việc thiện, làm một điều tốt cho
một người mà mình không thích để từ đó
nâng dậy người đàn bà sa ngã.
Hành động và lời nói của Chúa Giêsu
đã phá tan thành kiến nơi người đàn bà:
"Sao ông là người Do Thái mà lại xin nước
uống với tôi là người Samari?" Hành động
và những lời nói của Chúa làm cho người đàn
bà có một thái độ kính trọng hơn, bà đã
đổi cách xưng hô từ việc ngay từ
đầu gọi Chúa là ông một cách xa lạ, thì giờ
đây biến thành: "Thưa Ngài, xin hãy cho tôi
nước uống". Một lời thưa nói lên thái
độ kính trọng, bà đã sẵn sàng lắng nghe Chúa
nói với bà.
Chúa dùng hình ảnh nước uống
để mạc khải về mầu nhiệm ân sủng Thần Linh từ Thiên Chúa muốn
ban cho con người. Chúa không có thái
độ khinh thị, Chúa sử dụng ngôn ngữ
người đàn bà dễ hiểu và cuối cùng dẫn
bà đến thực tại sâu xa nhất trong tâm hồn
của bà. Đó là Chúa cho bà biết là bà đang khao
khát một cái gì cao siêu hơn, không phải nước
uống vật chất, không phải tình thương
nhục dục, nhưng khao khát ơn cứu rỗi, khao
khát gặp được Đấng Thiên Sai, trong lúc
đó Chúa Giêsu đã mạc khải rõ ràng hơn cho bà
Đấng Thiên Sai đó chính là Thiên Chúa, là người
đang nói với bà đây. Con đường đức
tin của bà đã bắt đầu, bà đón nhận và
trở thành người chứng đầu tiên cho Chúa, bà
chạy về làng kêu mời những người khác
đến gặp Chúa Giêsu. Tin và làm chứng
cho Chúa luôn đi đôi với nhau.
Tác giả Phúc Âm thánh Gioan không kể thêm chi
tiết khác nữa, vì đó có thể là những chi
tiết để thỏa mãn tính tò mò của mỗi
người chúng ta hôm nay khi đọc đoạn Phúc Âm
này, nhưng ngài muốn nói đầy đủ trong
đoạn Phúc Âm này những chi tiết khác thuộc
phạm vi riêng tư giữa Chúa và người đàn bà,
giữa Chúa và mỗi người chúng ta, giữa Chúa và
mỗi người mà chúng ta không cần biết
đến.
Những gì đã được kể ra
trong đoạn Phúc Âm hôm nay là để giúp cho mỗi
người chúng ta nhìn lại con đường
đức tin của mình: tôi đã gặp được
Chúa như thế nào? Tôi đã gặp Chúa hay chưa? Để
mỗi người chúng ta biết trở về nhìn
nhận giây phút ân sủng mà Chúa đến thăm mỗi
người, Chúa thực hiện một dấu lạ,
một điều gì đó kể cả Chúa dùng tội
lỗi của chúng ta như Chúa dùng trường hợp
tội lỗi của người đàn bà để
mạc khải một thực tại cao siêu hơn,
để kêu gọi người đàn bà trở về, bà
đã có năm đời chồng, bà nói đúng sự
thật về người mà bà đang sống, bà biết
người đang sống với bà không phải là
chồng của mình. Chúa có thể dùng
những tật xấu, những tội lỗi của
chúng ta để thức tỉnh chúng ta và mời gọi chúng
ta trở về với Chúa.
Xin Chúa giúp mỗi
người chúng ta được thức tỉnh
để nhìn nhận tình trạng tội lỗi của
mình, nhất là nhìn nhận nơi chính thâm tâm của mỗi
người chúng ta có một khao khát hướng về
Chúa, có một khao khát được ơn Chúa cứu
rỗi. Xin Chúa đến và củng cố đức tin
của chúng ta.
|