Cơn khát đam mê – Lm. Giuse
Tạ Duy Tuyền
Người ta kể rằng: có một
người thợ đào vàng chết và lên thiên đàng. Ngay
ở cổng thiên đàng, thánh Phê rô hỏi:
-
Ở trần gian con làm
nghề gì?
-
Anh ta thưa: Con làm nghề
đào vàng.
-
Thánh Phê rô nói: Trên thiên đàng
đã có quá nhiều thợ đào vàng rồi.
-
Anh ta đáp: Thưa ngài, xin
cứ cho con vô, để con cai trị
bọn nó, kẻo chúng tham lam mà gây náo loạn thiên cung, làm
sao dẹp loạn.
Nhờ
dẻo miệng anh ta cũng được thánh Phê rô cho
vào thiên đàng. Anh ta đảo một vòng thiên đàng
thì quả thật có rất nhiều tay
thợ đào vàng đang ở thiên đàng. Anh ta liền
rỉ tai rằng: ở hoả ngục
vừa phát hiện ra một mỏ vàng mới. Các anh mau xuống đó mà đào. Thế là
một thoáng qua đi, các tay đào vàng
đã bỏ thiên đàng, vác cuốc, vác xẻng nhảy
bổ xuống hoả ngục tìm vàng. Nhìn quanh nhìn quẩn
chỉ còn lại một mình, anh cũng cảm thấy
đứng ngồi không yên. Anh liền xin phép
thánh Phê rô cho anh xuống tham quan một vòng hoả ngục
xem sao. Thánh Phê rô mới bảo anh: đừng có mà
ảo tưởng. Chẳng có mỏ vàng nào ở hoả
ngục đâu! Chỉ có sự chết mà thôi! Nhưng anh
ta nói: thưa ngài, chính con là người phao tin đồn
đó, nhưng biết đâu ở đó lại có vàng
thật thì sao? Vì bọn kia đã ra
đi mãi mà chẳng thấy đứa nào quay trở
lại. Chắc là có vàng thật! Nói xong, anh liền
nhảy luôn xuống hoả ngục. Thế là cả
đống, cả chùm ở dưới hoả ngục.
Lòng tham của con người thật khôn cùng, sẵn sàng
hy sinh cả hạnh phúc đời đời để
thoả mãn cái khát vọng thấp hèn trần gian mau qua.
Có
thể nói, đói khát vàng bạc, giầu sang chỉ là
một trong muôn vàn cơn đói khát đang hành hạ và
giết chết hàng vạn người. Có biết bao
cơn khát của đam mê lầm lạc, của thú vui xác
thịt, của tiền tài danh vọng đã đẩy bao
người vào hố sâu của vực thẳm. Càng ngụp lặn trong vực thẳm, càng làm cho
họ trở nên điên rồ đánh mất nhân cách,
đánh mất tính người. Họ
đã lầm. Vì tất cả những thứ đó
không bao giờ làm thoả mãn cơn khát trong lòng họ. Vì được voi đòi tiên. Vì lòng tham vô đáy. Họ
chỉ bắt được bóng chứ không bắt
được mồi. Giếng sâu của lòng tham
chỉ làm cho con người thất vọng, chán
chường. Con người vẫn khao khát một
điều gì đó vượt lên những ảo ảnh
trần gian.
Người thiếu phụ bên bờ giếng
Giacob hôm nay cũng thế.
Mỗi ngày, chị phải ra giếng kín
nước. Nhưng uống nước
này là tự đầy đoạ mình. Dù
chưa nhận ra, nhưng chị vẫn thao thức và
bị dày vò vì một cơn khát nào đó mà những mối
tình trần tục đã không giải khát nổi, đã
không làm dịu đi sự thèm khát chút nào, càng đi sâu vào
biển tình, chị càng thấy thiếu thốn.
Thánh
Gioan đã nói "vì chị đã có 5 đời
chồng". Nói 5 đời chồng không có
nghĩa là một mình thiếu phụ đã đi lập
gia đình năm đời chồng liên tiếp. Nhưng có lẽ là 5 mối tình bất chính. Và cả người thứ sáu cũng không
thực sự là chồng. Như
vậy, chị đã quan hệ bất chính một lúc
với sáu người đàn ông nhưng không ai thực
sự là chồng của chị. Chị là một
phụ nữ trắc nết, bị xóm ngõ khinh miệt,
loại trừ, chị phải đi kín nước vào
giữa trưa hè nắng thay vì ban sáng hay chiều hôm
như bao phụ nữ khác. Chị đi vào
giờ này là để tránh gặp hàng xóm láng giềng.
Nhưng không ngờ chị lại gặp Chúa
Giê su. Lần gặp này đã thay
đổi vận mạng cuộc đời của
chị. Chúa Giê su đã mở lối thoát cho chị
thật nhẹ nhàng, khi Chúa nói: "Nếu chị nhận
ra ân huệ Thiên Chúa ban và ai là người nói với
chị cho tôi xin nước uống, thì hẳn chị
đã xin, và người ấy ban cho chị nước
hằng sống. Ai uống nước này
sẽ không còn khát nữa".
Chúa Giê su đã dẫn dắt chị
đi từ ý niệm cụ thể vật chất
đến siêu nhiên. Từ việc chính Chúa khát nước giữa
trưa hè nắng đổ lửa đến một
sự khát bỏng của tâm hồn khô cạn ơn thánh.
Người thiếu phụ này hằng khao
khát hạnh phúc và chị đã tìm sự thoả mãn trong
lạc thú với nhiều người đàn ông một
lúc, thế nhưng vẫn không thoả mãn cơn khát trong
lòng chị.
Cuộc đời của thiếu
phụ này là một thất bại dài đầy nghiệt
ngã thất vọng. Cho
đến khi gặp được Đấng Ky tô, chị ta mới nhận ra. "Còn ai
uống nước tôi ban sẽ không bao giờ khát
nữa". Nước Chúa ban là nước trường
sinh. Nước này không có cặn bã của tham lam bất
chính, của dục vọng đen tối, của đam mê
lầm lạc. Nguồn nước ân
thánh tinh khiết có khả năng chữa lành các
thương tích của tâm hồn và làm hồi sinh những
tâm hồn đang chết trong đam mê tội lỗi.
Người ta nói trong thất bại thường có
sự may mắn. Chị là người may mắn
đầu tiên được lãnh nhận nguồn
nước ân thánh đó. Thế là tâm
hồn chị được tha thứ, được
rửa sạch và đã khát, chị chẳng cần
đến giếng Giacob và nước nữa, chị thoăn
thoắt chạy vào thành báo tin cho dân làng biết có thứ
nước hằng sống, nước trường sinh
mà mọi người đang khao khát, đó là Đấng
Ky tô là Thiên Chúa cứu độ, là Đấng Messia họ
đang mong đợi. Vì chính Đấng ấy đã nói
với chị: "Chính tôi là Đấng đang nói với
chị đây".
Hôm nay Chúa viếng thăm người
thiếu phụ Samaria và bà đã được
tỉnh ngộ. Bà đã làm lại cuộc đời.
Hằng ngày Chúa cũng đến thăm chúng ta qua thánh
lễ, qua Lời Chúa và các bí tích, nhưng liệu chúng ta
đã tìm được nguồn suối ân
sủng của Ngài hay ta vẫn còn loay hoay ngụp lặn
trong những ảo ảnh trần gian?
Mùa
chay mời gọi chúng ta hãy tự kiểm điểm
lại đời sống của mình: tôi đang khao khát
những gì? Tôi đã tim được
chúng chưa? Tôi thường tìm thoả mãn
về những điều gì? Điều đó có giúp
ta nên thánh hay đang huỷ hoại mình trong những cơn
đói khát bất chính?
Lời
Chúa vẫn mời gọi chúng ta: "ai uống
nước này sẽ không còn khát nữa", chúng ta có tin và
sống như thế hay không? Hay chúng ta vẫn đói khát
của cải danh vọng, quyền thế để khi
không được, chúng ta lại trách Chúa như dân Do Thái
hồi ở Masa trong sa mạc năm
xưa?
|